Điểm danh 30 trường Đại học Việt Nam có Công bố Quốc tế nhiều nhất Số lượng công bố quốc tế hàng năm của Việt Nam đã cán mốc gần 10.000 bài/năm (năm 2018) trong đó các cơ sở giáo dục đại học đóng góp tới 70%. Tốc độ gia tăng các bài báo WoS & Scopus hàng năm của Việt Nam tăng mạnh (34,7% đối với cả nước và 41,6% đối với riêng các CSGDĐH). Vậy trường đại học nào có công bố quốc tế nhiều nhất nước? Cán mốc 10.000 bài/năm Số liệu công bố quốc tế trong CSDL WoS, Scopus và WoS & Scopus của Việt Nam nói chung và các cơ sở giáo dục đại học (CSGDĐH) nói riêng trong giai đoạn 2014-2018 được thống kê như sau: Trong 5 năm đó, cả nước đã công bố 22.438 bài báo WoS, 29.932 bài báo Scopus và tổng cộng 32.732 bài trong CSDL tích hợp WoS & Scopus. Đồng thời, số liệu tương ứng của các CSGDĐH là 13.728 (WoS), 21.702 (Scopus) và 23.144 bài (WoS & Scopus), chiếm trung bình khoảng 70% so với năng suất của cả nước. Về tổng số bài báo Scopus cao hơn số bài báo WoS 1,33 lần; tổng số bài báo WoS & Scopus cao hơn số bài báo WoS 1,46 lần và số bài báo Scopus 1,09 lần. Lưu ý, tổng số bài báo WoS & Scopus trong giai đoạn 2014-2018 của Việt Nam chỉ tương đương với năng suất công bố bài báo Scopus của Indonesia trong năm 2017 (21.300 bài) hoặc năm 2018 (33.988 bài). Năng suất khoa học - số lượng bài báo công bố trên Việt Nam đang tăng qua từng năm và có dấu hiệu tăng mạnh hơn sau năm 2017. Trong giai đoạn 2014-2017, trung bình mỗi năm số lượng bài báo WoS & Scopus tăng khoảng 18,8% (từ 4.332 bài đến 7.217 bài trong 3 năm). Tuy nhiên, chỉ trong một năm từ 2017-2018, số lượng bài báo đã tăng lên 34,7% (từ 7.217 đến 9.719 bài). Như vậy, năm 2018, Việt Nam đã gần như đã cán mốc 10.000 công bố quốc tế một năm. Kết quả này cao hơn một chút so với năng suất công bố bài báo Scopus hàng năm (ví dụ: 8.800 bài năm 2018) của Trường ĐHQG Singapore. Trong số đó, tốc độ gia tăng số công bố trong hai giai đoạn phân kỳ ấy của WoS là 22,4% và 30,5%; của Scopus là 18,1% và 33,7%. Tương tự, số lượng bài báo WoS & Scopus của các CSGDĐH Việt Nam, từ 2014-2017, trung bình mỗi năm tăng 21,8%, nhưng chỉ tính riêng năm từ 2017-2018, con số này tăng lên đến 41,6%. Trong đó, tốc độ gia tăng số công bố trong hai giai đoạn phân kỳ ấy của WoS là 29,4 % và 38,5%; của Scopus là 21.3% và 41,1%. Kết quả gia tăng công bố quốc tế theo bảng trên nhận thấy rằng, tỉ lệ gia tăng các bài báo Scopus ngày càng chiếm trọng số quan trọng và đặc biệt là sự đóng góp vào sự gia tăng đến từ các CSGDDH. Kết quả này cho thấy các trường đại học tại Việt Nam đang dần quan tâm đến công bố quốc tế. Chính sự gia tăng năng suất công bố quốc tế của các CSGDĐH đã quyết định mức độ gia tăng chung về công bố quốc tế của cả nước. Sự gia tăng có tính chất đột biến này xảy ra trong thời kỳ các CSGDĐH Việt Nam được trao quyền tự chủ. 30 cơ sở giáo dục đại học có số lượng bài báo nhiều nhất Số liệu về tổng số bài báo WoS & Scopus và số lần trích dẫn trong giai đoạn 2014-2018 được liệt kê cho thấy top 30 CSGDĐH có số lượng bài báo nhiều nhất trong giai đoạn 2014-2018. Có thể thấy rằng, đến hết năm 2018, ĐHQGTpHCM và ĐHQGHN vẫn là hai cơ sở giáo dục có tổng số bài báo cao nhất. Điều thú vị là Trường Đại học Tôn Đức Thắng đã vươn lên vị trí top 3 và Trường đại học Duy Tân nằm ở vị trí top 5. Khi so sánh năng suất công bố quốc tế của các CSGDĐH có thể thấy số lượng bài báo của trường top 1 (ĐHQGTpHCM) chỉ nhiều hơn xấp xỉ 2 lần so với trường top 4 (Trường ĐHBK Hà Nội). Thực tế, đây là 4 CSGDĐH hàng đầu của Việt Nam đã có tên trong các bảng xếp hạng đại học quốc tế như QS, THE và AWRU. Tuy nhiên, nếu so sánh với các trường top 15 thì sự khác nhau về số lượng công bố quốc tế đã là 10 lần. Đáng nói hơn, khi so sánh trường top 1 với top 30, sự khác biệt lên đến gần 50 lần. Điều này cho thấy ở Việt Nam mới chỉ có khoảng 15 CSGDĐH có định hướng và năng lực nghiên cứu nổi trội. Đây là thông tin có ý nghĩa, có thể sử dụng để hoạch định chính sách phát triển các CSGDĐH. Tổng số bài báo WoS & Scopus và số trích dẫn giai đoạn 2014-2018 của top 30 CSGDĐH Việt Nam. Khi khảo sát cụ thể mức độ gia tăng trong thời gian gần đây của một số CSGDĐH có thể thấy rằng, trong giai đoạn 2014-2018, tốc độ gia tăng về công bố quốc tế hàng năm của ĐHQGHN, ĐHQG TpHCM và các CSGDĐH truyền thống hầu như không có sự đột biến, trong lúc đó Trường Đại học Tôn Đức Thắng và Trường ĐH Duy Tân có tốc độ gia tăng vượt trội. Năm 2017, số lượng bài báo WoS & Scopus của Trường ĐH Tôn Đức Thắng đã vượt qua ĐHQGHN và năm 2018 lại tiếp tục vượt qua ĐHQGTpHCM. Năm 2018, số lượng bài báo WoS & Scopus của Trường ĐH Duy Tân cũng đã tiến kịp Trường ĐHBKHN. Trước đó, năm 2014, hai trường này thậm chí còn không nằm trong top 10 của Việt nam. Đóng góp của Trường ĐH Tôn Đức Thắng đã làm thay đổi cán cân công bố quốc tế của các CSGDDH tại khu vực TP.HCM so với khu vực Hà Nội. So sánh mức độ gia tăng về số lượng bài báo giữa các CSGDĐH tại khu vực Hà Nội và TP. HCM. Cụ thể, vào năm 2014, số lượng bài báo WoS & Scopus của các CSGDĐH Hà Nội cao hơn, sự cân bằng giữa hai khu vực đã đạt được vào năm 2017. Vào năm 2018, số lượng bài báo của các CSGDĐH tại TP.HCM đã tăng mạnh, vượt xa so với số lượng bài báo của các CSGDĐH tại Hà Nội. Xu thế này đang tiếp tục được khẳng định trong năm 2019. Tính đến 11/2019, Trường ĐH Tôn Đức Thắng và Trường ĐH Duy Tân lần lượt đã công bố được 2300 và 980 bài báo WoS & Scopus, dẫn đầu các CSGDĐH. Đồng thời, Trường ĐH Tôn Đức Thắng đã đứng đầu cả nước, vượt qua cả Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam. Kết quả phân tích cho thấy rằng, chỉ số trích dẫn trung bình của các CSGDĐH Việt Nam đạt giá trị 9,2. Sau khi đối sánh và chuẩn hóa với CSDL do bảng xếp hạng QS công bố cho ĐHQGHN, có thể Chỉ số trích dẫn trung bình của top 30 CSGDĐH Việt Nam giai đoạn 2014 - 2018. Theo đó, Việt Nam có 7 CSGDĐH có chỉ số trích dẫn cao hơn chỉ số trung bình của cả nước và của châu Á là: Trường ĐH Y Hà Nội (18,1); Trường ĐH Y tế công cộng (16); Trường ĐH Duy Tân (11,8); Trường ĐH Mỏ Địa chất (11,0); ĐHQGHN (10,7); Trường ĐH Kinh tế Quốc dân (10,6) và Trường ĐH Tôn Đức Thắng (10,3). Ngoài trường hợp các trường đại học thuộc lĩnh vực khoa học sức khỏe, chỉ số trích dẫn trung bình cao của Trường ĐH Mỏ Địa chất và Trường ĐH Kinh tế quốc dân là điều đáng ghi nhận. Các nghiên cứu của hai trường vừa nêu có thể vừa có tính cập nhật, đồng thời liên quan đến các vấn đề đặc thù của Việt Nam nên được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm nhiều. Trang điện tử của hệ thống CSDL tích hợp WoS và Scopus Vcgate https:// vcgate.vnu.edu.vn:3000. Các số liệu công bố trên thuộc công trình nghiên cứu phát triển cơ sở dữ liệu (CSDL) Web of Science và Scopus trên hệ thống Vcgate của ĐHQGHN đối với các bài báo của các tác giả Việt Nam. Nhóm nghiên cứu Nguyễn Hữu Thành Chung, Võ Đình Hiếu, Ngô Mạnh Dũng - ĐH Quốc gia Hà Nội đã triển khai xây dựng thành công Phần mềm hệ thống cổng thông tin chỉ số nghiên cứu Việt Nam. Hiện nay, hệ thống này này đã chỉ mục cho gần 70 tạp chí xuất bản trực tuyến của Việt Nam với gần 50.000 bài báo, bước đầu phục vụ việc xếp hạng chất lượng các tạp chí và cung cấp khả năng phân tích, đánh giá năng lực công bố kết quả nghiên cứu ở trong nước. Ngoài việc thu thập và chỉ mục cho các bài báo trên các tạp chí của Việt Nam, Vcgate còn có khả năng thu thập chỉ số trích dẫn. Do đó, Vcgate có chức năng tương tự như các hệ thống CSDL khoa học của các quốc gia khác, đặc biệt rất tương đồng với WoS và Scopus. Đặc biệt, công trình này cũng chỉ ra mối liên hệ giữa tự chủ đại học và việc nâng cao năng suất và chất lượng nghiên cứu khoa học. (Nguồn:https://dantri.com.vn/giao-duc-khuy...g-bo-quoc-te-nhieu-nhat-20191226094442667.htm)
Trường đại học Duy Tân nhận Huân chương Lao động hạng Nhất TTO - Ngày 28-11, Trường đại học Duy Tân, Đà Nẵng tổ chức Lễ kỷ niệm 25 năm ngày thành lập và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất. Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ trao Huân chương Lao động hạng Nhất cho ĐH Duy Tân - Ảnh: TRƯỜNG TRUNG Tại lễ kỷ niệm, Trường đại học Duy Tân được trao Huân chương Lao động hạng Nhất. Ngoài ra TS Lê Nguyên Bảo - Hiệu trưởng nhà trường, cũng được trao Huân chương Lao động hạng Ba vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác giáo dục và đào tạo. Ngày 11-11-1994, Trường ĐH dân lập Duy Tân được thành lập theo chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng và Nhà nước. Đến năm 2015, trường chuyển đổi từ loại hình dân lập sang tư thục, đào tạo đa ngành, đa hệ; tổ chức đào tạo trình độ đại học và sau đại học. Hiện nhà trường có 10 viện nghiên cứu, 20 khoa, 22 trung tâm nghiên cứu ứng dụng; tổ chức đào tạo ba chuyên ngành trình độ tiến sĩ, tám chuyên ngành trình độ thạc sĩ; 28 ngành trình độ đại học; trong đó có 13 ngành hợp tác quốc tế về đào tạo với nhiều trường ĐH quốc tế. Phát biểu tại buổi lễ, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ đánh giá cao những thành quả mà ĐH Duy Tân đạt được trong 25 năm qua. Đặc biệt là việc trở thành đại học ngoài công lập đầu tiên của nước ta được tổ chức QS châu Á xếp hạng tốp 500 trường đại học hàng đầu châu Á năm 2019-2020. Bộ trưởng Nhạ bày tỏ mong muốn trong giai đoạn sắp tới, ĐH Duy Tân tích cực hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, giữ vững vị trí là trường đại học tốp đầu trong giáo dục đại học, đặc biệt là khối giáo dục đại học ngoài công lập ở nước ta. Đồng thời cũng đề nghị ĐH Duy Tân bên cạnh việc phát triển nhà trường theo hướng đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực nhưng cũng cần rà soát tổng thể để đầu tư tập trung vào một số ngành thế mạnh mà địa phương, nhất là khu vực Miền Trung - Tây Nguyên cần. Theo tiến sĩ Võ Thanh Hải, phó hiệu trưởng ĐH Duy Tân, đến nay trường đã tuyển sinh được bảy khóa tiến sĩ với 48 nghiên cứu sinh, 21 khóa thạc sĩ, 2.521 học viên cao học. "25 khóa đại học, cao đẳng nhà trường đã đào tạo hơn 100.000 sinh viên. Trong những năm qua, trường còn tự nguyện thực hiện chính sách cho những đối tượng con gia đình chính sách, nhà nghèo, miền núi hải đảo hơn 60 tỉ đồng. Đặc biệt nhà trường đã làm nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước hơn 126 tỉ đồng"- tiến sĩ Hải cho biết. Trường ĐH ngoài công lập có nhiều bài báo quốc tế Vào năm 2017, ĐH Duy Tân là một trong 20 trường đại học đầu tiên của cả nước và là trường đại học ngoài công lập đầu tiên được công nhận đạt kiểm định chất lượng giáo dục. Năm 2019, ĐH Duy Tân là trường đại học thứ hai của Việt Nam kiểm định ngành đạt chuẩn ABET với 2 chương trình đào tạo: An ninh mạng và Hệ thống thông tin quản lý. Trường này cũng là một trong 4 trường đại học có công bố quốc tế nhiều nhất Việt Nam năm 2018 và 2019 và được tổ chức Nghiên cứu khoa học Quốc tế Nature Index xếp hạng trường ĐH hàng đầu của Việt Nam về Nghiên cứu khoa học niên khóa 2018 - 2019 với 2.547 bài báo quốc tế. TRƯỜNG TRUNG https://tuoitre.vn/truong-dai-hoc-duy-tan-nhan-huan-chuong-lao-dong-hang-nhat-20191128144730435.htm
SV Duy Tân giành giải khuyến khích Giải thưởng Đồ án SV tốt nghiệp xuất sắc 2019 Đồ án “Quy hoạch không gian kiến trúc cảnh quan vùng chiến sự huyện Can Lộc -tỉnh Hà Tĩnh” của sinh viên (SV) Phạm Thị Hằng, Đại học (ĐH) Duy Tân đã giành giải Khuyến khích Giải thưởng Đồ án SV Tốt nghiệp xuất sắc năm 2019. Thể hiện rõ sức sáng tạo với quy hoạch theo xu hướng hiện đại cùng nhiều giải pháp cho một công trình xanh, đồ án “Quy hoạch không gian kiến trúc cảnh quan vùng chiến sự huyện Can Lộc - tỉnh Hà Tĩnh” của SV Phạm Thị Hằng - Khoa Kiến trúc, Đại học (ĐH) Duy Tân đã xuất sắc giành giải Khuyến khích tại Giải thưởng Đồ án Sinh viên tốt nghiệp xuất sắc năm 2019. Lễ trao giải đã diễn ra vào ngày 28.11.2019 tại Cung Quy hoạch, Hội chợ, Triển lãm và Văn hóa Quảng Ninh. Đây cũng là giải thưởng thường niên do Hội Quy hoạch Phát triển Đô thị Việt Nam dành trao tặng cho các đồ án tốt nghiệp có tính sáng tạo của sinh viên thuộc các chuyên ngành: Quy hoạch; Hạ tầng Kỹ thuật đô thị; và Quản lý đô thị. Giải thưởng khích lệ các tài năng trẻ trong việc đưa ra các giải pháp phát triển bền vững để ứng phó với biến đổi khí hậu, đô thị sinh thái, đô thị xanh… Năm nay, có 56 đồ án tốt nghiệp đến từ các đơn vị đào tạo trong cả nước tham dự. Sinh viên Phạm Thị Hằng (thứ 4 từ phải sang) nhận giải Khuyến khích Tham gia cuộc thi với đồ án “Quy hoạch không gian kiến trúc cảnh quan vùng chiến sự huyện Can Lộc - tỉnh Hà Tĩnh”, SV Phạm Thị Hằng đến từ ĐH Duy Tân đã mang đến nhiều bất ngờ thú vị khi thiết kế các đường nét cảnh quan vùng chiến sự huyện Can Lộc dựa trên địa thế thiên nhiên mà không phá vỡ hệ thống thảm thực vật phong phú vốn có. Sử dụng hình ảnh, màu sắc và tạo hình khơi gợi ký ức, công trình sẽ giúp người tham quan hiểu rõ hơn những năm tháng lịch sử hào hùng của quân và dân ta trên con đường huyết mạch nối liền Bắc - Nam. Tất cả những thế đèo, dáng núi, dòng chảy của con sông hay các công trình tâm linh của khu di tích gồm: tháp chuông, nhà tưởng niệm, hố bom, phần mộ của 10 cô gái tại Ngã ba Đồng Lộc đều được lưu giữ nguyên vẹn. Tuy nhiên, một số địa điểm khác như ngọn đồi La Thị Tám, núi Trọ Voi đã được tác giả đề xuất chuyển đổi cơ cấu cây trồng, trong đó một số nơi được quy hoạch thành địa điểm du lịch trải nghiệm trồng và thu hoạch lúa nước. Nếu đồ án được đưa vào quy hoạch thì đây sẽ trở thành một trong những địa điểm dừng chân lý tưởng cho du khách bốn phương để tìm hiểu về lịch sử, tưởng nhớ về những chiến công oanh liệt của cha anh, và còn được hòa mình vào biển trời mây nước non xanh nơi đây. Sinh viên Phạm Thị Hằng chụp ảnh lưu niệm cùng ThS-Kiến trúc sư Trần Ngọc Phương - giảng viên khoa Kiến trúc, ĐH Duy Tân Trở về từ Lễ trao giải, sinh viên Phạm Thị Hằng chia sẻ: “Sinh ra và lớn lên ở Can Lộc, Hà Tĩnh nên em hiểu rất rõ về phong tục tập quán, tín ngưỡng, các điểm mạnh và điểm yếu của khu di tích Ngã ba Đồng Lộc. Cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình, tận tâm của thầy Ngọc Phương và các thầy cô trong Khoa Kiến trúc - ĐH Duy Tân, em đã có điều kiện hoàn thiện đồ án một cách tốt nhất. Giải thưởng lần này mà em vinh dự được nhận, tuy chỉ là một giải thưởng nhỏ trên phạm vi cả nước, nhưng đó lại là nguồn động viên to lớn cho những sinh viên Kiến trúc sắp tốt nghiệp như em, giúp em thêm tin tưởng rằng việc áp dụng những kiến thức đã học từ ĐH Duy Tân vào thực tế công việc sẽ đạt được hiệu quả tốt nhất”. Trực tiếp hướng dẫn sinh viên thực hiện đồ án tốt nghiệp đoạt giải, ThS-Kiến trúc sư Trần Ngọc Phương - giảng viên Khoa Kiến trúc, ĐH Duy Tân cho biết: “Đối với đồ án kiến trúc thì đã khó, đồ án quy hoạch lại còn khó hơn rất nhiều vì sinh viên phải tìm kiếm các tài liệu về khu đất, đánh giá hiện trạng cũng như các quy định, quyết định, quy hoạch chung. ĐH Duy Tân tuy không đào tạo chuyên ngành riêng về quy hoạch nhưng các em sinh viên Kiến trúc đều được lĩnh hội hệ thống kiến thức bao quát và được tiếp cận với các kiến thức tiên tiến trên thế giới về lĩnh vực Kiến trúc - Xây dựng thông qua việc ký kết hợp tác giữa ĐH Duy Tân và ĐH Bang California ở Fullerton và Cal Poly ở San Luis Obispo (CSU-California State) để chuyển giao các chương trình đào tạo chất lượng hàng đầu thế giới về trường. Chính vì vậy, sinh viên Duy Tân đã gặt hái được nhiều thành công tại các cuộc thi trong nước và quốc tế. Theo đó, số lượng lớn các tân kỹ sư, kiến trúc sư của trường đều đáp ứng tốt hầu hết các yêu cầu đặt ra của doanh nghiệp”. Các bạn có thể xem thêm thông tin về đào tạo ngành Kiến trúc của ĐH Duy Tân tại đây: Khoa Kiến trúc. https://thanhnien.vn/giao-duc/sv-du...o-an-sv-tot-nghiep-xuat-sac-2019-1156791.html