Trong bài viết Nhiếp ảnh cơ bản: Các bước chụp một tấm hình, chúng ta có đề cập đến 4 bước bao gồm: Bật máy, Chọn chế độ chụp phù hợp, Lấy nét và chụp, Xem lại và xóa. Tuy nhiên trên thực tế, nếu lựa chọn một trong số các chế độ chụp nâng cao (xem lại bài viết Các chế độ chụp thường gặp trên máy ảnh) chúng ta còn đồng thời phải thiết lập một số các thông số khác bởi khi đó máy ảnh sẽ dành cho chúng ta rất nhiều “đất” để sáng tạo và làm chủ chiếc máy. Việc thiết lập các thông số này có ý nghĩa như nhau trên cả máy ảnh ống kính rời lẫn máy ảnh du lịch. 1. Thiết lập giá trị phơi sáng (EV) Với 3 chế độ chụp P, A và S, người chụp cần xác lập giá trị EV mong muốn từ trước khi chụp (xem lại bài viết Các thông số cơ bản trong nhiếp ảnh: Sự phơi sáng để hiểu rõ hơn về ý nghĩa của giá trị EV này) để tạo ra tấm hình với độ phơi sáng như mong muốn. Mặc định EV=0 được coi là “đủ sáng” Các giá trị dương (+) sẽ điều chỉnh máy cho lượng sáng nhiều hơn với thực tế, giá trị âm (-) thì ngược lại. Tuy nhiên không phải lúc nào giá trị EV=0 mặc định cũng cho ánh sáng đúng với thực tế những gì mắt người nhìn thấy, nguyên nhân có thể do tính năng đo sáng làm việc sai, hoặc người dùng thiết lập cách thức đo sáng không chính xác (xem phần 2 trong bài viết này). Trong nhiều trường hợp, giá trị này sẽ cần phải giảm xuống (tương tự như mắt người khi nhìn giữa buổi trưa nắng gắt phải nheo lại và lấy bàn tay che phía trên lông mày) hoặc tăng lên (tương tự như khi nhìn ban đêm, ta thường phải cố mở mắt to ra để nhìn được rõ hơn). Lúc này máy ảnh sẽ tự tính toán các thông số còn lại (tốc độ chụp, độ mở ống kính, độ nhạy sáng ISO) để hình chụp ra đạt đúng giá trị EV đã thiết lập. Vì là một thông số vô cùng quan trọng, nên giá trị EV thường được ưu ái đặt trên một nút bấm riêng để người dùng có thể truy cập nhanh thay vì phải vào sâu trong Menu trên màn hình. Nút bấm này thường được ký hiệu như sau: Nút EV (khoanh màu đỏ) trên máy ảnh ống kính rời. Nút EV (khoanh màu đỏ) trên máy ảnh du lịch. 2. Thiết lập cách thức đo sáng (Metering) Mỗi vật thể riêng rẽ trong cùng một tấm hình đều mang các giá trị sáng khác nhau. Ví dụ giá trị sáng của một chiếc bóng đèn điện chắc chắn sẽ lớn hơn nhiều lần giá trị sáng của một con đom đóm. Thiết lập Metering là thiết lập cách thức mà máy ảnh sẽ ghi nhận từng giá trị sáng riêng rẽ này, rồi tổng hợp chúng lại thành một giá trị phơi sáng chung cho cả tấm hình sẽ chụp ra. Tùy theo thể loại ảnh mà chúng ta sẽ sử dụng các cách thức đo sáng khác nhau. + Matrix metering hay Evaluative/ Pattern metering: đo sáng kiểu ma trận. Máy ghi nhận giá trị sáng tại tất cả các vùng sáng tối trong khung hình, rồi sau đó tính toán để đưa ra một giá trị phơi sáng cân bằng nhất, đảm bảo mọi vật thể tại mọi vị trí trong khung hình đều ít nhiều nhận được một lượng ánh sáng chấp nhận được. Cách thức đo sáng này thường được sử dụng trong thể loại ảnh phong cảnh. +Spot metering: đo sáng điểm. Máy ghi nhận và tái hiện chính xác giá trị phơi sáng tại điểm được lấy nét (tạm gọi là giá trị sáng gốc). Giá trị sáng tại các vùng còn lại trên tấm hình được tái hiện dựa trên tỷ lệ tương quan với giá trị sáng gốc này. Đây là cách thức đo sáng “buộc phải sử dụng” khi chụp ảnh chân dung, đặc biệt là chân dung trong điều kiện ngược chiều ánh sáng. + Center-weight metering: đo sáng vùng bao quanh điểm lấy nét. Đảm bảo vùng trung tâm xung quanh điểm lấy nét của tấm hình (bao gồm vị trí đặt điểm lấy nét và các vùng liền kề xung quanh) chụp ra được “đủ sáng”, trong khi các vùng sáng tối ở xa hơn có thể có sự sai lệch trong giới hạn cho phép. Thực tế Center-weight metering là cách thức đo sáng chỉ xuất hiện từ khi máy ảnh số trở nên phổ biến. Còn trước đó, trong thời kỳ máy phim lẫn máy ảnh số sơ khai, cách thức đo sáng chỉ bao gồm Matrix và Spot, cũng là hai cách thức mà chúng ta thường sử dụng nhất. + Partial metering: cách thức đo sáng ít gặp, nằm đâu đó giữa spot metering và center-weight metering. Ký hiệu và minh họa cách thức đo sáng của từng loại trên: Máy ảnh ghi nhận giá trị sáng tại các vùng ảnh màu xám (độ đậm của màu xám thể hiện mức độ được chú trọng nhiều hơn) rồi đưa ra giá trị phơi sáng cuối cùng cho tấm hình chụp ra. Metering mode trên máy ảnh ống kính rời thường được đặt trên một nút bấm riêng. Đối với máy ảnh du lịch, nó cũng có thể nằm trên một nút bấm riêng hoặc nằm sâu bên trong Menu tùy chỉnh. Nút tùy chỉnh Metering dạng bấm (khoanh màu đỏ). Nút tùy chỉnh Metering dạng xoay gạt. Tùy chỉnh Metering trên Menu bên trong máy. 3. Thiết lập kiểu chụp (Drive): Thiết lập kiểu chụp của máy: Chụp đơn (single) từng tấm một, Chụp liên tiếp (continous) nhiều tấm liên tiếp cho tới khi đầy bộ nhớ đệm, hay Chụp hẹn giờ (self-timer). Một số máy có tính năng High Continous giúp chụp liên tiếp được nhiều tấm hình hơn trong 1 giây, nhưng độ phân giải ảnh sẽ bị giảm đi. Cách sử dụng các kiểu chụp này sao cho hiệu quả đã được nói tới kỹ càng trong loạt bài viết Vận dụng tốc độ chụp, mời các bạn xem lại để hiểu rõ hơn. Nút thiết lập Drive: Nút thiết lập Drive mode (khoanh màu đỏ). Thiết lập drive mode trên Menu bên trong máy. 4. Thiết lập cân bằng trắng (White Balance / WB) Xác định loại nguồn sáng hay điều kiện ánh sáng tại thời điểm chụp (điều kiện sáng là trời nắng gắt, trời nhiều mây… / nguồn sáng là đèn huỳnh quang, đèn sợi đốt…) để từ đó máy ảnh tái tạo màu sắc cho tấm hình được chính xác. Với sự phát triển của công nghệ ngày nay, máy ảnh số làm việc khá tốt trong việc tự động xác định nguồn sáng / điều kiện sáng nên người dùng có thể yên tâm để WB ở chế độ Auto, hoặc các thiết lập WB có sẵn trên máy. Với người sử dụng các mẫu máy ảnh số cao cấp hay chuyên nghiệp, còn có thể lựa chọn cân bằng trắng theo độ K hoặc custom. Ký hiệu và ý nghĩa của chúng như sau: Ký hiệu và ý nghĩa của các loại WB (cột bên trái, từ trên xuống dưới): Cân bằng trắng tự động, Cân bằng trắng tùy chọn, Cân bằng trắng theo nhiệt độ màu Kelvin, Cân bằng trắng với nguồn sáng bóng đèn sợi đốt, bóng đèn huỳnh quang, ánh sáng ban ngày, đèn flash, trời nhiều mây, bóng râm. Cột bên phải minh họa rõ nét hơn về các sử dụng Cân bằng trắng theo nhiệt độ màu Kelvin. Theo đó, nhiệt độ màu càng cao tương ứng với nguồn sáng càng lạnh, lúc này máy sẽ phải bổ sung thêm gam màu lạnh vào hình chụp để bù lại. Nút tùy chỉnh WB (khoanh màu đỏ) trên máy ảnh. 5. Thiết lập độ nhạy sáng (ISO) Như bài viết Các thông số cơ bản trong nhiếp ảnh: Sự phơi sáng đã phân tích, ISO cao cho tốc độ chụp nhanh hơn, khắc phục được nhược điểm của những ống kính có độ mở nhỏ, tuy nhiên bù lại, chất lượng ảnh sẽ kém đi với nhiều hạt (noise) và sự sai lệch trong tái hiện màu sắc. Với các mẫu máy ngày nay, ISO tối đa có thể lên tới 128.000, nhưng thực sự đó chỉ là con số mang tính chất chạy đua công nghệ giữa các hãng với nhau, vì chẳng ai cần đến mức ISO “điên rồ” đó cả. ISO 50-100 được coi là tốt nhất cho ảnh chụp chân dung (ngoài trời, đủ sáng) vì chúng tạo hiệu ứng mịn da (khỏi cần Photoshop) cho người mẫu. ISO 200-800 phù hợp với ảnh chụp trong nhà, trời chiều muộn. ISO 800-1600 phù hợp với ảnh chụp buổi tối, ánh sáng yếu. Nút tùy chỉnh ISO. 6. Thiết lập cách thức lấy nét (Focusing) Chuyển đổi qua lại giữa 3 phương thức lấy nét: tự động lấy nét một lần (Single autofocus), tự động lấy nét liên tục (Continuous autofocus) và lấy nét bằng tay (Manual focus) tùy theo từng thể loại ảnh chụp (xem lại bài viết Vận dụng tốc độ chụp - phần I). Nút tùy chỉnh Focusing. Thông thường, Single autofocus được sử dụng với chủ thể tĩnh (chân dung, phong cảnh, tĩnh vật). Continuous autofocus được sử dụng để đeo bám (object tracking) chủ thể động (thể thao, trẻ em, tốc độ cao) và Manual focus được sử dụng trong trường hợp chủ thể có ít sự tương phản (ví dụ: bức tường đồng màu) hoặc khoảng cách lấy nét cực gần (close-up). 7. Thiết lập kích thước và chất lượng ảnh chụp Nút thiết lập kích thước và chất lượng ảnh chụp (khoanh màu đỏ). Thông thường máy ảnh số lưu ảnh dưới 2 định dạng: ảnh số dạng thô (file .RAW, .TIFF) và ảnh số dạng nén (file .JPG hay .JPEG). Nếu bạn không phải là người quan tâm nhiều tới vấn đề xử lý hậu kỳ với các phần mềm chuyên dụng như Photoshop thì không cần sử dụng tới định dạng ảnh thô vì chúng có dung lượng rất lớn, tầm vài chục – thậm chí đến cả trăm Mb. Với mỗi ảnh chụp, có thể lựa chọn kích thước lớn (chính là độ phân giải tối đa mà mỗi mẫu máy ảnh thường quảng cáo, ví dụ 18 “chấm” – 18 Megapixel), vừa hoặc nhỏ. Tương tự như vậy, chất lượng ảnh có thể chọn Tốt (Fine, Best), Bình thường (Normal, Standard) hoặc Thấp (Low), chúng sẽ ảnh hưởng tới dung lượng của ảnh. Trên đây là các thông số quan trọng mà bạn đọc cần thiết lập – bất kể với một chiếc máy ảnh ống kính rời cao cấp hay du lịch bình dân, để tối ưu hóa khả năng làm việc của chúng. Trong bài viết tuần sau, GenK sẽ hướng dẫn các bạn cách bố cục một tấm hình sao cho thật "chuyên nghiệp và ấn tượng". Sẽ là một bài viết thú vị và bổ ích khác nữa, mời bạn đọc đón xem!
Bài viết sẽ cho bạn một số khái niệm cơ bản nhất về cách thức làm việc của chế độ cân bằng trắng, và hướng dẫn bạn cách thiết lập WB sao cho hiệu quả. Cân bằng trắng (White Balance - WB) là một trong những thông số quan trọng nhất của máy ảnh. Hãy thử tưởng tượng bạn đang định chụp một khung cảnh tuyệt đẹp trên bãi biển với từng đợt sóng nhẹ nhàng xô trên bờ cát vàng mênh mông. Bạn nghĩ chắc chắn với chiếc máy mình đang cầm trên tay cùng điều kiện đủ sáng hoàn hảo như vậy sẽ tạo nên một bức ảnh toàn mỹ. Nhưng chưa chắc đã như vậy đâu, trong những hoàn cảnh có nhiều nguồn sáng hoặc nhiều vật thể với màu sắc phức tạp khác nhau, chế độ WB Auto của máy ảnh rất dễ bị nhầm lẫn. Và kết quả là ta sẽ có những tấm hình có màu sắc khác hoàn toàn với phiên bản gốc. Vậy phải làm thế nào để khắc phúc tình trạng đáng ghét này? Bài viết sau đây sẽ hướng dẫn từng bước một rất cụ thể, và bạn sẽ thấy thiết lập đúng WB cũng không phải là điều gì quá ghê gớm. 1. Nhiệt độ màu Để hiểu được khái niệm và cách thức hoạt động của chế độ WB, trước hết bạn phải nắm được một số kiến thức căn bản nhất về nhiệt độ màu. Có thể hiểu nôm na nhiệt độ màu là một cách biểu hiện của những chùm ánh sáng có thể nhìn thấy được. Như bạn thấy, quanh ta có rất nhiều loại ánh sáng với nhiều màu sắc khác nhau, đa phần sự khác biệt này là do cường độ nguồn phát sáng. Dựa vào đó, người ta phân ra nhiều thang đo nhiệt độ màu, với đơn vị là độ K (Kelvin). Một nguồn sáng có nhiệt độ sáng càng cao sẽ càng phát ra ánh sáng có màu xanh hơn và có giá trị độ K cao hơn so với nguồn sáng yếu có màu đỏ dần. Bảng thống kê dưới đây sẽ cho bạn thấy rõ hơn về 9 mức nhiệt độ màu khác nhau, tương ứng với mỗi nấc là một ví dụ cho bạn dễ nắm bắt. Ánh sáng nến: 1000-2000 K Ánh sáng đèn bóng tròn: 2500-3000 K Ánh nắng mặt trời lúc bình minh/hoàng hôn: 3000-4000 K Ánh sáng đèn huỳnh quang: 4000-5000K Ánh sáng đèn Flash: 5000-5500 K Ánh nắng mặt trời lúc bình thường: 5500-6500 K Ánh nắng mặt trời giữa trưa: 6000-7000 K Trời có mây, bóng râm: 6500-8000 K Trời trong xanh: 10000-15000 K 2. Ánh sáng có ảnh hưởng tới màu sắc như thế nào? Nếu là người hay chụp ảnh, hẳn đã ít nhất một lần bạn gặp phải tình huống ảnh bị ngả màu vàng/cam khi chụp dưới ánh đèn bóng tròn (đèn Vonfram, Tungsten), hoặc ngả mà xanh nhạt khi chụp trong phòng dùng đèn huỳnh quang. Tình trạng này xảy ra là vì mỗi nguồn sáng đều phát ra một nhiệt độ màu khác nhau. Một máy ảnh kỹ thuật số có thể đo được các màu như đỏ, xanh lá, xanh lam trong một chùm sáng tới cảm biến. Một bức ảnh được chụp dưới ánh sáng mặt trời ban ngày sẽ có đầy đủ các bước sóng trong một quang phổ (tức là ánh sáng trắng). Vì vậy, khi chụp dưới ánh đèn bóng Vonfram mà không chỉnh nhiệt độ màu về đúng nấc sẽ có hiện tượng trên do chùm sáng phát ra từ bóng đèn loại này có bước sóng khác với ánh sáng trắng (được tạo nên bởi 7 màu cơ bản). Một mẹo nhỏ để bạn dễ nhớ và áp dụng là nguồn sáng có nhiệt độ càng cao (ngọn lửa đèn khò, bếp ga) thì phát ra ánh sáng càng xanh, nguồn sáng có nhiệt độ càng thấp ( ngọn nến, đèn dầu) thì ánh sáng càng đỏ. 3. Vì sao phải chỉnh WB? Như đã nói ở phần trên, mỗi nguồn sáng có một màu sắc khác nhau, tùy thuộc vào chúng thuộc khoảng bước sóng nào trong quang phổ vạch. Những nguồn sáng nhấn tạo hầu hết đều có nhiệt độ màu thấp và lượng nhiệt nhỏ hơn ánh sáng mặt trời. Những chùm sáng này vì thế có bước sóng nhỏ, và thuộc dải sáng đơn sắc màu đỏ (nằm trong khoảng 0.644 đến 0.76 micromet). Khi đi vào cảm biến máy ảnh, chúng sẽ được những tế bào sáng màu đỏ trong hệ màu RGB của cảm biến hấp thụ. Chính vì thế bức ảnh sẽ bị ngả màu cam hoặc vàng tùy vào mức độ ánh sáng. Máy ảnh số, những cảm biến cùng vi xử lý hình ảnh đắt giá tới hàng chục triệu cũng vẫn là máy móc nên không thể nào có khả năng kỳ diệu như con mắt của loài người được. Mắt của chúng ta cùng hệ thần kinh thị giác có khả năng tự động điều chỉnh khi tiếp xúc với những nguồn sáng và nhiệt độ màu khác nhau để hiển thị về màu sắc một cách trung thực chỉ trong một tíc tắc rất nhỏ. Một chiếc camera thì không thông minh đến vậy, nên khi rơi vào những trường hợp ánh sáng phức tạp, ta phải tự điều chỉnh nó cho phù hợp với môi trường xung quanh. 4. Thiết lập thông số về WB Auto: Chế độ tự động cân bằng trắng có trên mọi máy ảnh số ngày nay, và trên hầu hết các mẫu smartphone, được ký hiệu là AWB. Theo thời gian, cùng với sự tiến bộ của công nghệ, các máy ảnh số ngày càng thông minh hơn, nên sử dụng AWB trong đa số trường hợp đều cho ra màu sắc chuẩn hoặc sai khác có thể chấp nhận được. Tuy nhiên nếu cảm thấy không hài lòng khi sử dụng chế độ này, bạn nên chuyển qua dùng các thiết lập khác cho phù hợp. Tungsten: Bạn nên dùng preset này khi chụp trong nhà, dưới ánh đèn bóng tròn Vonfram. Màu sắc của bức ảnh sẽ bớt bị ngả vàng, và dịu đi thấy rõ khi bạn sử dụng. Fluorescent: Ngược lại với Tungsten, thiết lập chế độ này sẽ làm tông màu sáng và ấm hơn. Bức ảnh của bạn sẽ không còn ám màu xanh ảm đạm nữa. Daylight: Dùng khi chụp ngoài trời, dưới ánh sáng mặt trời có cường độ bình thường, không quá chói chang. Hiện tại, chỉ có một số máy ảnh có preset này mà thôi. Cloudy: Khi chụp ngoại cảnh trong một ngày nhiều mây, hãy nhớ đến chế độ này. Tác phẩm của bạn trông sẽ tươi tắn, tràn đầy sức sống hơn bình thường. Flash: ánh đền Flash có nhiệt độ màu rất cao, rất dễ gây hiện tượng cháy sáng nếu không biết cách sử dụng. Khi kích hoạt chế độ này cảm biến sẽ tự động điều chỉnh để tiếp nhận ánh sáng đều hơn giữa vùng có và không có Flash. Shade: chụp trong bóng râm làm ảnh bị tối và ảm đạm hơn những gì mắt ta nhìn khung cảnh thực. Chế độ Shade sẽ làm tăng độ ấm áp cho tấm hình. 5. Chỉnh WB thủ công Nếu tất cả những preset trên vẫn chưa đưa ra được một kết quả có thể chấp nhận được thì đã đến lúc bạn phải ra tay điều chỉnh WB. Có rất nhiều cách để làm điều này, nổi tiếng hơn cả vẫn là phương pháp grey card – sử dụng một tấm thẻ có màu xám chuẩn được in ra để thiết lập làm mẫu. Tuy nhiên, điều này khá là phiền phức vì không phải ai cũng muốn kè kè tấm thẻ đó bên người, dưới đây sẽ là một phương pháp khác linh hoạt hơn, nhưng về nguyên lý thì không có gì khác grey card. Bạn hãy tìm một vật thể nào thật trắng để chụp lại làm mẫu. Sau đó chỉnh thiết lập trong máy ảnh lấy màu trắng bạn vừa chụp được làm WB chuẩn. Rất đơn giản, chỉ có vậy là xong. Từ đó trở đi, máy của bạn đã có thể phân tích được trong môi trường hiện tại thì màu trắng chuẩn là như thế nào, để từ đó có thể nhận định chính xác những màu sắc khác. Tất nhiên, khi di chuyển đến một khung cảnh có điều kiện sáng khác, bạn lại phải thực hiện lại thao tác này. Nhưng tốn vài giây để có hàng chục tấm hình đẹp thì không đáng kể gì cả. Kết luận Hãy bỏ ngoài tai những lời nhận xét đầy tính mỉa mai rằng sử dụng AWB hoặc những preset có sẵn trong máy chỉ dành cho những tay mơ. Thực tế, trong hầu hết trường hợp, những thiết lập trên đều hoạt động hoàn hảo, và không phải lúc nào bạn cũng có thời gian để kịp chỉnh tay chế độ WB. Vì thế, hãy sử dụng thành thạo những preset có sẵn trong máy cho quen tay trước khi tập tành chế độ manual, vì xét cho cùng cái đich mà chúng ta hướng tới đều là một tấm hình đẹp mà thôi.
Bầu trời về đêm luôn có một vẻ đẹp kì bí và thơ mộng khó tả. Tuy nhiên, chụp đêm khó hơn chụp ban ngày rất nhiều, và chụp bầu trời đêm thì càng khó. Cũng không có một nguyên tắc cố định nào cho thể loại này vì thời tiết mỗi ngày một khác. Tuy nhiên, nếu muốn theo đuổi loại hình có hai điểm bạn phải chú ý. Thứ nhất là phải chuẩn bị sẵn tripod kèm theo dây bấm hoặc remote, và thứ hai là phải hết sức kiên nhẫn, vì thời gian phơi sáng của một bức ảnh có thể kéo dài đến vài tiếng. Chụp Star Trails Vì Trái đất luôn di chuyển theo một quĩ đạo vòng quanh Mặt trời, đồng thời nó cũng quay quanh bản thân với trục là đường nối hai cực trái đất. Vì vậy, đứng trên mặt đất nhìn lên trời, ta có cảm giác các ngôi sao dường như đang quay xung quanh địa cầu chầm chậm vậy. Thực tế thì cứ mỗi 5 đến 10 phút, chúng ta có thể dễ dàng cảm nhận sự thay đổi này, và nếu bạn dùng máy ảnh để ghi lại chuyển động thì càng rõ rệt hơn. Kết quả thu được, sẽ là một bức ảnh với những vệt sáng với quĩ đạo hình tròn trên bầu trời đêm rất đẹp mắt. Để chụp những tấm hình thể loại Star Trails, trước tiên bạn phải chuẩn bị một chân máy, đặt máy lên tripod và căn chỉnh cẩn thận cho khung hình không bị nghiêng. Sau đó, lấy nét ở vô cực, và đặt thiết lập chụp hình là M (Manual) hoặc Bulb. Các bạn sẽ sử dụng dây bấm mềm để thực hiện thao tác chụp. Thời gian phơi sáng sẽ giao động từ vài phút cho tới vài tiếng, tùy nhu cầu của người chụp. Hầu hết các máy ảnh đều giới hạn thời gian phơi sáng ở mức 30s, để có thể phơi lâu như trên, bạn nhớ dùng chế độ Bulb. Bạn cũng có thể chụp nhiều tấm với thời gian phơi 30s, sau đó download phần mềm Star Trails về và nó sẽ tự động ghép lại. Để chụp thể loại này, bạn cần nắm vững một số kiến thức về thiên văn học, bố cục, kỹ thuật chụp, và không kém phần quan trọng là phải đảm bảo thời lượng pin. Chọn lựa địa điểm Nơi đẹp nhất để chụp bầu trời đêm, và ảnh thiên văn thường là các vùng quê, hoặc trên các đồi núi. Thành phố không thích hợp cho thể loại này chút nào vì có nhiều ánh sáng nhân tạo của đường phố, và các tòa cao ốc, ngoài ra không khí ô nhiễm cũng làm bầu trời bị mù hơn rất nhiều. Thời tiết tuyệt vời nhất để chụp Star Trails là những đêm có bầu trời thật đen, càng đen càng tốt. Vào những đêm trăng sáng, bạn không nên chụp, vì thời gian phơi sáng quá lâu lên đến hàng chục phút sẽ khiến ánh sáng Trăng trở nên rất mạnh, lúc này bức ảnh rất dễ bị hỏng vì cháy sáng. Thực tế, chỉ cần phơi 10 phút dưới ánh sáng Trăng, bạn đã có một tấm hình sáng như chụp buổi ban ngày. Để dễ nhớ, thời điểm tốt nhất để thực hiện việc phơi sáng là khi trăng vừa lên hoặc chuẩn bị lặn, lúc này ánh sáng từ các ngôi sao sẽ nổi bật hơn nhiều. Sử dụng thời gian phơi sáng dài Khi chụp bầu trời đêm với thời gian phơi snags đủ lâu, thường là 15 phút trở lên, bạn sẽ thấy được rõ sự chuyển động của Trái đất. Những thiết bị cần chuẩn bị là một chân máy thật vững chãi, dây bấm mềm, hoặc remote. Lấy nét ở vô cực, và thiết lập chế độ B (Bulb), khẩu độ để ở f/4 để có hiệu ứng quang học đẹp nhất, sau đó giữ nút chụp ở dây mềm. Bạn nên đặt ISO ở mức 100 để hạn chế sạn xuất hiện, vì thời gian phơi rất lâu, lên tới hơn 15s. Để kết thúc thao tác chụp, sau một khoảng thời gian phơi sáng mà bạn cảm thấy là đủ lâu, ấn nút trên dây bấm mềm hoặc remote một lần nữa để đóng màn trập. Chụp ánh sáng cực quang Ánh sáng cực quang là một hiện tượng thiên nhiên kỳ thú, và tất nhiên, để có thể khi lại những khoảnh khắc tuyệt diệu này là một điều vô cùng khó khăn mà không phải tay máy sừng sỏ nào cũng có thể làm được. Cái khó ở đây là do sự di chuyển, và thay đổi liên tục về cường độ của luồng sáng. Các hạt điện từ mặt trời này chuyển động rất nhanh, đôi khi thoắt ẩn thoắt hiện khiến việc ghi hình gặp khá nhiều trở ngại. Tuy nhiên, nếu làm theo những hướng dẫn dưới đây, bạn sẽ thấy việc chụp thể loại này cũng không quá khó. Trước tiên, hãy gắn thật chắc chiếc máy ảnh của bạn vào tripod, tìm một vị trí đặt chân máy thật vững vàng vì thời gian phơi là khá lâu. Đặt ISO trong khoảng từ 100 tới 400, thời gian phơi sáng dao động trong khoảng 30s hoặc hơn, tùy vào mức sáng của luồng cực quang. Trước đó, hãy chụp thử vài tấm để điều chỉnh hệ thống đo sáng và WB cho chính xác, bới chế độ đo sáng vồn được thiết kế cho điều kiện chụp ngày, nên có thể sẽ gặp đôi chút sai khác trong điều kiện này. Các lens góc rộng và có tốc độ lấy nét nhanh được khuyến cáo nên sử dụng trong thể loại chụp ảnh cực quang. Chụp bầu trời mây Khi màn đêm dần buông xuống, ánh sáng mặt trời dần rút về sau những đám mây. Đây là thời điểm tuyệt vời nhất để hướng máy lên bầu trời chụp hình. Từng đám mây bồng bềnh lững thững trôi, cộng thêm với hiệu ánh sáng đẹp mắt do hiện tượng tán xạ tạo nên chắc chắn sẽ làm ra những bức ảnh tuyệt vời. Mặc dù ánh sáng lúc này không đủ mạnh, trời cũng hơi tối, nhưng bạn vẫn nên dùng kính lọc lam 80A để tăng độ xanh độ bầu trời, và hạn chế bớt màu vàng của ánh sáng nhân tạo (đèn đường). Hãy sử dụng ống kính góc rộng để bao quát được khung cảnh rộng lớn. Trước khi bắt đầu, hãy chụp thử vài tấm để phân tích xem nên điều chỉnh chế độ đo sáng, WB, và các thông số kỹ thuật như nào là hợp lý. Các thiết lập khuyên dùng Đo sáng vào lúc trời tối luôn là một trở ngại với nhiều người, và cũng khó có thể đưa ra một công thức cố định nào cho mọi trường hợp. Nếu bạn đang ở trong môi trường có cả các mảng sáng và tối thì nên đặt chế độ đo sáng điểm (spot metering) để chính xác nhất. Nếu trời gần như tối hoàn toàn thì nên dùng thiết lập đo sáng là Center Weighted hoặc Evaluative thì hợp lý hơn. Các chế độ chụp được khuyên dùng là Munual và Bulb, ngoài ra đừng bật flash vì nó sẽ chẳng giúp ích gì trong thể loại này.
Làm sao để chụp được bức ảnh có hồn luôn là ước muốn của bất cứ một người chơi ảnh nào. Một tấm hình đẹp không chỉ cần có kỹ thuật tốt, bố cục gọn gàng, màu sắc, ánh sáng hài hòa, mà ý tưởng luôn là yếu tố không thể thiếu. Điều này nghe có vẻ mơ hồ và phức tạp, nhưng thực ra chỉ cần một vài mẹo nhỏ về cách nắm bắt thời gian và không gian là bạn đã có thể chụp được một bức để đời. Bài viết này sẽ tập trung vào hai loại phối cảnh dễ tạo ấn tượng là độ sâu trường ảnh và cách tạo khung cho tấm hình. Bộ óc và thị giác của con người là một cỗ máy khá hoàn hảo, nó có khả năng thu thập và phân tích để đưa ra những kết quả chính xác nhất về khoảng cách và kích thước tương đối của vạn vật quanh ta. Những gì ta nhìn thế giới qua đôi mắt ra sao thì khi lên ảnh cũng y như vậy, vật ở gần thì to và rõ, càng ra xa thì càng nhỏ và mờ ảo hơn. Kết quả cũng tương tự với những đường thẳng, con đường dưới chân bạn luôn rất to và thẳng, với hai mép song song nhau, nhưng càng phóng tầm mắt về cuối con đường ta càng có cảm giác chúng như nhỏ dần lại và gặp nhau ở một điểm. Điều này được biết đến trong nhiếp ảnh với cái tên “Luật xa gần”. Một khi nắm bắt và hiểu rõ về luật này, hay nói dễ hiểu hơn là về phối cảnh, những tác phẩm của bạn trông không chỉ có chiều sâu, mà còn rất có hồn. Phối cảnh đường thẳng Đây là loại phối cảnh mà bạn sẽ thường gặp nhất trong đời sống, và cũng là loại dễ thực hành nhất. Điểm nhấn của tấm ảnh sẽ là hai bên lề của con đường, tốt nhất bạn nên đưa hai đường song song này vào giữa khung hình để tạo điểm nhấn. Cố gắng lấy nét ở vô cực, để khẩu nhỏ, và đừng để những đối tượng khác như xe cộ hay người qua lại lọt vào khung hình gây rối mắt. Kết quả là bạn sẽ có một con đường dài hun hút như xoáy sâu vào thị giác người xem vậy. Nói cách khác, những bức ảnh kiểu này rất dễ tạo ấn tượng mạnh, do nó khiến người xem có ảo giác về không gian. Ảnh: Ben Fredericson. Để chụp những tấm hình kiểu này, tốt nhất bạn nên sử dụng những lens góc rộng. Loại ống kính này sẽ làm tăng cảm nhận về độ sâu của bức ảnh, do nó có khả năng xóa nhòa ranh giới giữa tiền cảnh và hậu cảnh bằng cách nhấn mạnh vào điểm cuối tấm hình, nơi gặp nhau của hai đường thẳng. Nếu bạn dùng những ống kính tele, góc hẹp, mọi chuyện sẽ khó khăn hơn một chút do thế mạnh loại lens này là DOF nông, nó chỉ lấy nét tại một vùng, mà không tạo được sự kết nối, liền mạch, và có độ nét thông suốt giữa tiền cảnh và hậu cảnh như các lens wide. Ảnh: Bas Lammers. Các bức ảnh dưới đây được chụp bằng lens góc rộng 18mm, và bạn có thể thấy người chụp vừa thể hiện được đầy đủ những chi tiết cần thiết, nhưng vẫn tạo được điểm nhấn, và độ sâu cho tấm hình mà không hề bị rối mắt. Ngoài ra góc độ chụp cao hay thấp cũng ảnh hưởng nhiều tới kết quả, bạn hãy tự mình trải nghiệm để tìm ra kỹ thuật chụp nào hợp gu của mình nhất. Ảnh: ...-Wink-... . Phối cảnh kiểu thu nhỏ Loại phối cảnh này tương đối giống với kiểu đường thẳng ở chỗ cả hai cùng thể hiện cái nhìn xa xăm, với một đường thẳng chứa các chủ thể ngày càng xa vời và nhỏ bé dần. Nếu bạn định chụp một con đường vắng vẻ vào buổi tối với hai hàng đèn đường lạnh lẽo mỗi bên thì rất nên lưu ý tới kiểu bố cục này. Bạn nên đặt hai hàng cột thẳng hàng vào tiền cảnh để tạo điểm nhấn, càng ra xa những chiếc đèn càng nhỏ đi, và cho tới cuối khung hình ta chỉ nhận ra những chấm nhỏ lờ mờ. Bạn phải chú ý, điểm nhấn của loại bố cục này là một hàng/dãy các vật thể cứ bé dần đều, chúng rõ nét ở tiền cảnh, và càng tiến về hậu cảnh càng mờ nhạt dần, đó chính là sự khác biệt cơ bản so với phối cảnh kiểu đường thẳng. Ảnh: Giovanni Orlando. Một điểm lưu ý nữa khi định áp dũng kỹ thuật này là các chủ thể phải đồng nhất, tốt nhất là cùng một loại về màu sắc, hình dạng và kích cỡ như các tấm hình bên dưới. Sở dĩ phải để tâm đến điều này bởi thị giác con người chỉ bị thu hút khi các vật thể có cùng kích thước nhưng khác nhau về khoảng cách. Làm tốt bố cụ loại này bức ảnh của bạn sẽ rất “tâm trạng” và có chiều sâu. Ảnh: paul bica. Một trường hợp khác cũng rất nên áp dụng phối cảnh thu nhỏ là khi chụp cầu thang từ trên xuống, nhất là dạng xoắn ốc. Nếu gặp dạng này, bạn hãy đứng từ vị trí cao nhất có thể, và tưởng tượng ra một đường thẳng ở tâm của hình xoắc ốc, nhớ là đường thẳng đứng, vuông góc với mặt đất chứ không phải đường nằm ngang. Khi đó, càng xoáy sâu xuống bên dưới thì cảnh vật càng thu nhỏ lại, và ta có cảm giác hệ cầu thang đồ sộ này sẽ mất hút tại một điểm nằm ở tâm bức hình. Nói một cách dễ hiểu, bạn chọn điểm giao cắt của đường thẳng bên trên với mặt đất là điểm lấy nét, và nhấn nút chụp. Ảnh: . SantiMB . Ảnh: Marcel Germain. Phối cảnh trên không Hiện nay rất nhiều người ưa dùng phối cảnh này khi chụp ảnh phong cảnh, đặc biệt là ở những nơi rộng rãi, có nhiều mây khói hoặc sương mù ở phía xa. Chụp ảnh trong những điều kiện thời tiết như vậy không những tạo được điểm nhấn về hình dạng của chủ thể, mà còn đưa thêm hiệu ứng về chiều sâu cho người xem. Đối tượng gần ống kính máy ảnh nhất sẽ hiện lên sẽ rất đậm nét, thậm chí có phần hơi bão hòa màu, tuy nhiên càng ra xa mọi thứ càng trở nên mờ ảo cũng như nhẹ nhàng hơn nhiều. Ảnh: Éole Wind. Khi nhìn một bức ảnh chụp theo phong cách này, bạn sẽ có cảm giác nó được tạo nên bởi nhiều lớp khác nhau, hệt như một tác phẩm tranh vẽ. Chính sự tương phản rõ rệt về màu sắc và độ nét của phần tiền cảnh và hậu cảnh đã tạo nên điều này. Thông thường khi xem một tấm ảnh loại này, đôi mắt sẽ bị thu hút trước tiên bởi phần rõ nét và có màu sắc nổi bật ở gần, sau đó mới đến phần phía sau. Vì là ảnh chụp phong cảnh nên thường sẽ chỉ có một màu sắc chủ đạo duy nhất, tuy nhiên sự khác biệt lớn về độ tương phản được tao nên bởi các tia sáng bị khúc xạ khi đi qua từng cao độ khác nhau của khí quyển đã tạo nên một hiệu ứng vô cùng đẹp mắt. Ảnh: James Jordan. Nếu bạn là người yêu thích hội họa, phối cảnh kiểu này đã từ lâu là một trong những chuẩn mực kinh điển. Tuy nhiên, với nhiếp ảnh thì các tay máy mới chỉ thực sự đào sâu tìm hiểu và khám phá chúng trong thời gian gần đây. Để chụp tốt loại này, bạn trước tiên cần chú ý đến hai yếu tố khách quan là ánh sáng và thời tiết. Không có một chuẩn mực nào để ta có thể đem ra như một công thức chung, nhưng bạn nên xem xét căn chỉnh kĩ để có một shot hình ưng ý nhất mà không phải qua hậu kỳ nhiều. Để có được kết quả tốt nhất, bạn nên sử dụng loại ống kính có tiêu cự dài (tele) vì khả năng tạo điểm nhấn cho chủ thể ở gần máy ảnh tốt hơn nhiều so với loại ống kính góc rộng. Dùng lens kiểu này phần tiền cảnh sẽ được làm nổi bật hẳn lên so với phần hậu cảnh ở xa có sương khói mù mịt. Một lưu ý nữa là lens tele khi zoom xa thường bị nhòe và rung, do đó bạn nên mang theo một tripod để đảm bảo tác phẩm của mình có độ sắc nét tối đa. Ảnh: Marcel Germain. Khoảng thời gian tốt nhất trong năm để bạn thực hành kiểu phối cảnh này là những ngày mùa đông nhiều sương mù, nhưng nếu “trình” cao thì bạn có thể chơi được cả vào mùa hè, mỗi khi trời vừa mưa rào xong. Ngoài ra, còn có một lưu ý nữa về mặt kỹ thuật là về độ phơi sáng, thường thì trong những điều kiện như trên ảnh thường bị tối, và khá ảm đạm, nhưng nếu biết cách áp dụng một vài chiêu để chọn điểm khóa sáng thích hợp, bạn hoàn toàn có thể đánh lừa cảm biến của máy ảnh và tạo ra những tấm hình tươi tắn cân đối hơn đời thực nhiều. Ngoài ra, tốt nhất bạn nên đưa máy ảnh về chế độ chỉnh tay hoàn toàn (mode M) để có thể toàn quyền can thiệp về khẩu, tốc, ISO thì mới có kết quả hoàn chỉnh được. Ảnh: coyote-agile. Độ sâu trường ảnh Đây là khái niệm không còn quá xa lạ hay khó hiểu với đa số những người yêu thích chụp ảnh. DOF (depth of field) ảnh hưởng trực tiếp đến độ sắc nét của chủ thể và độ mờ của phần hậu cảnh/tiền cảnh. Não của chúng ta thường tiếp nhận thông tin về chủ thể ở gần cũng nghĩa là vật rõ nét nhất trước tiên, sau đó mới tới các phần ở xa hơn. Càng ra xa khung cảnh càng mờ và làm nền cho vật thể ở gần nổi bật hơn, đó là những gì thuộc về thị giác, chứ không chỉ của nhiếp ảnh. Ảnh: Dustin Diaz. Hãy thử tưởng tượng khi bạn đang chụp chân dung một người đứng trước một bức tường gạch, ở khẩu độ f/2,8 và lấy nét vào khuôn mặt. Lẽ dĩ nhiên, người đó trông chỉ nét hơn bức tường phía sau đôi chút. Bây giờ, chỉ cần anh/cô ấy đứng xa bức tường kia vài bước chân, vẫn giữ nguyên các thông số và điểm lấy nét, kết quả sẽ hoàn toàn khác. Phần hậu cảnh sẽ trở nên mờ hơn nhiều, bạn càng tăng khoẳng cách thì độ mờ càng lớn. Kết quả là bức hình sẽ làm người xem liên tưởng đến người trong bức hình ở rất xa bức tường kia và họ sẽ chỉ chú tâm vào chủ thể và không bị phân tâm vào phần background, dù sự thực không đến nỗi như vậy. Đây là minh chứng tiêu biểu cho khả năng “đánh lừa” thị giác tuyệt vời của máy ảnh khi bạn biết cách áp dụng. Tạo khung cho ảnh Rất đơn giản! Tất cả những gì bạn cần làm chỉ là tận dụng những gì có quanh mình để làm nên một chiếc khung ngay trong tấm hình cho vật bạn chọn làm chủ thể. Tuy dễ hiểu và không khó khăn gì để áp dụng, nhưng hiệu quả của phương pháp này đem lại là rất lớn. Bạn không chỉ tạo được điểm nhấn, mà dường như còn đang vẽ ra một con đường dẫn dắt người xem đến với trọng tâm của tác phẩm. Chính điều này khiến tấm hình trở nên gọn gẽ và có chiều sâu hơn rất nhiều. Ảnh: Trey Ratcliff. Kết luận Bạn thấy đấy, những kiểu bố cục, phối cảnh như trên cũng tương đối dễ hiểu và áp dụng đấy chứ. Nhưng điều quan trọng nhất cho một bức ảnh đẹp vẫn là một con mắt nghệ thuật, biết nắm bắt chính xác thời điểm và phối hợp hài hòa các nguồn sáng. Một khi làm chủ được ánh sáng, bạn sẽ dễ dàng phối các kỹ thuật trên với nhau và tạo ra một tuyệt phẩm để đời cũng nên.
Hầu hết những người yêu nhiếp ảnh đều sống hoặc làm việc tại các thành phố lớn. Thành phố về đêm lên đèn thật lung linh, hấp dẫn, nhưng để chụp được những tấm hình phong cảnh đẹp vào quãng thời gian này thật không dễ chút nào. Sự chênh lệch lớn giữa các vùng sáng – tối, hay gặp phải những địa điểm có nhiều nguồn sáng phức tạp làm không ít tay máy phải chùn bước. Bài viết sau sẽ hướng dẫn bạn một số mẹo để có được bức ảnh đẹp khi chụp đêm trong thành thị. Chụp bảng hiệu Những khu vực sầm uất trong thành phố luôn nổi bật về đêm nhờ hệ thống biển hiệu rực rỡ của các cửa hàng. Đôi khi, một số bảng hiệu lớn còn thể hiện nhiều ý nghĩa, hoặc gắn liền với một sự kiện nổi tiếng nào đó. Bằng mắt thường, bạn dễ thấy chúng rất sáng, rõ, nhưng khi lên hình thì lại tối sầm lại. Đó là do có sự chênh lệch lớn về độ sáng giữa bảng hiệu với môi trường xung quanh làm máy ảnh đo sáng bị sai. Để khắc phục tình trạng này, chẳng còn cách nào khác là phải học một số kiến thức về các cách thức làm việc của hệ thống đo sáng trên máy ảnh. Nhưng để đơn giản hóa, và dễ áp dụng nhất, bạn chỉ cần thiết lập chế độ đo sáng theo điểm (spot metering), sau đó chọn điểm khóa sáng ở vùng có tông màu trung tính, không quá sáng cũng không quá tối (như hàng chữ màu đỏ LAS VEGAS trong tấm hình dưới). Ngoài ra, nếu có thể hãy sử dụng tripod để tránh bị rung và tắt Flash để không bị cháy sáng khi đang đứng gần chủ thể. Chụp phong cảnh Bước đầu tiên và cũng là quan trọng nhất, bạn phải tìm được một vị trí đứng vừa thuận lợi, an toàn cho việc chụp hình, vừa có thể bao quát được toàn bộ cảnh quan của khu vực muốn chụp. Đặt máy ảnh lên tripod hoặc một điểm tựa vững chắc như bờ tường, lan can, sau đó thiết lập máy về chế độ AV (aperture priority – ưu tiên khẩu độ). Như hướng dẫn ở các bài viết lần trước, khi chụp ảnh phong cảnh, độ chi tiết, và độ sâu trường ảnh phải đặt lên hàng đầu. Vì thế, cố gắng khép khẩu ở ngưỡng f/8 cho tới f/16 (hoặc bé hơn nếu có thể). Sau đó, bạn cài chế độ chụp hẹn giờ cho máy (self-timer) hoặc dùng cáp điều khiển để chụp. Sở dĩ phải thực hiện thao tác này là vì chỉ cần một rung động nhỏ khi nhấn nút chụp cũng có thể khiến ảnh bị nhòe khi đang ở khẩu độ nhỏ như vậy. Và cuối cùng, hãy nhớ khung giờ vàng để chụp phong cảnh là vào giờ đầu tiên sau khi mặt trời mọc (bình minh) và một giờ trước khi mặt trời lặn (hoàng hôn). Chụp cầu Đây cũng là một trong những thể loại rất được ưa chuộng của những cư dân thành thị. Thật khó cưỡng lại vẻ đẹp sững sờ của những cây cầu hùng dũng vươn nhịp qua sông khi thành phố lên đèn. Các bước chụp cũng tương tự như trên. Đầu tiên, bạn phải tìm một vị trí đẹp để chụp và dễ dàng cho việc đặt tripod. Cố gắng tìm những nơi có thể bao quát được cả mặt nước, cầu, và những ngôi nhà ở bên kia bờ sông. Chúng ta sẽ sử dụng nhà cửa làm hậu cảnh và sông nước làm tiền cảnh cho chủ thể chính là cây cầu. Sau đó, thiết lập chế độ chụp AV, khép khẩu ở mức f/16 hoặc nhỏ hơn. Để có hiệu ứng ánh sáng và dòng nước đẹp mắt nhất, hãy đặt thời gian phơi sáng lâu một chút, tùy vào hoàn cảnh cụ thể, thường là 1-30s. Nếu bạn thích màu sắc ấm áp, không quá rực vì phơi sáng lâu thì nên đặt WB ở preset Daylight. Chụp chân dung đường phố Thể loại này đã quá quen thuộc với chúng ta, và cũng rất nhiều người từng chụp chân dung dưới ánh đèn đường. Tuy vậy, chụp thế nào cho đẹp thì không phải ai cũng biết. Trước tiên, chủ thể chính là người được chụp sẽ đứng ở vị trí tiền cảnh, hậu cảnh thì tùy bạn sáng tạo. Một số gợi ý cho bạn là nên chọn những background ấn tượng như một dòng xe đang băng qua, hoặc một dãy nhà/ đèn đường thẳng tắp. Riêng trong điều kiện này, Flash được khuyến khích sử dụng, nó không chỉ khiến cho bức ảnh đủ sáng, mà còn giúp tạo điểm nhấn cho người được chụp. Nhớ nhắc “người mẫu” của bạn đứng yên vì sẽ có một khoảnh khắc delay từ khi ấn núp chụp cho tới khi ánh đèn flash nhá lên. Trái với chụp phong cảnh, khi chụp chân dung hãy mở to khẩu độ nhất có thể để bức ảnh được sáng, và có DOF nông để xóa mờ hậu cảnh – tạo thêm điểm nhấn cho chủ thể. Để có độ cơ động cao cho nhiều tư thế đẹp, cố gắng đừng dùng tripod nếu có thể, ISO thì nên đặt ở mức 400 trở lên. Chụp các công trình kiến trúc Mỗi thành phố đều có những công trình công cộng rất nổi tiếng, làm biểu tượng cho mình. Chúng rất đa dạng về kiến trúc, có thể là tượng đài, nhà hát, bảo tàng,… nhưng tất cả đều có một điểm chung là sẽ rất rực rỡ khi màn đêm buông xuống. Chụp ảnh vào lúc này sẽ mang đến một góc nhìn hoàn toàn khác so với ban ngày. Để chụp được những bức hình đẹp, bạn hãy trang bị cho mình một ống kính góc rộng và một chiếc tripod. Đưa máy về chế độ AV, và đặt khẩu độ ở f/16 trở lên, máy sẽ tự động tính toán thời gian đóng màn trập hợp lý. Nếu bạn định phơi sáng thì hãy nhớ đặt mức ISO thấp nhất có thể, thường là 100. Chụp đường phố Điểm hấp dẫn của thể loại này là bạn có thể làm “đông cứng” chuyển động của dòng xe cộ thành những vệt sáng ảo diệu. Để làm được điều này, nhất thiết bạn phải sử dụng kỹ thuật phơi sáng, có nghĩa là cần một tripod. Đặt máy ngay ngắn, khung hình cân đối, không bị nghiêng ngả, và đặt máy về chế độ M (Manual, chứ không phải AV). Tiếp đó, đặt khẩu ở mức f/11-f/32 để có độ sâu trường ảnh lớn, ISO ở mức 100 để hạn chế tình trạng nhiễu sạn. Thời gian đóng màn trập với đa số trường hợp là 6s, thời gian này vừa đủ để ảnh không bị quá sáng, mà vẫn ghi lại được các vệt sáng đẹp mắt. Các thiết lập khuyên dùng Chụp ảnh đêm là một thử thách khó nhằn với đa số người chơi nhiếp ảnh nếu như không có đủ các món đồ chơi cần thiết. Điều quan trọng nhất mà bạn luôn phải nhớ trong tình huống không có tripod là giữ chắc thân máy. Sau đó mở khẩu độ to để có nhiều sáng vào cảm biến, đặt ISO cao, và mở Flash để ảnh không bị rung, nhòe. Còn nếu có tripod thì mọi việc đơn giản hơn nhiều, chỉ cần đặt AV và ISO như các hướng dẫn bên trên và máy sẽ làm nốt những việc còn lại. Các thiết bị khuyên dùng Đó là ống kính góc rộng để chụp phong cảnh, và có độ mở khẩu lớn. Tripod để giúp máy không bị rung khi chụp, cố gắng chỉ dùng flash trong một số trường hợp bắt buộc, hoặc khi chụp chân dung. Sử dụng cáp điều khiển để chụp mà không cần chạm vào thân máy. Cuối cùng, nếu có điều kiện bạn nên trang bị một vài kính lọc để tạo hiệu ứng đẹp, và ảo hơn, ví dụ như kính lọc có hình những ngôi sao nhỏ chẳng hạn.
Sau khi đã bỏ ra hàng giờ, hàng tuần, thậm chí hàng tháng trời tìm hiểu về các quy tắc trong nhiếp ảnh, cuối cùng bạn cũng đã thể đủ tự tin mà nói rằng mình không còn là một “tay mơ” chỉ biết chụp hình lưu niệm bằng những chiếc máy “bấm và chụp” (point and shot) luôn tự động bật đèn flash lên trong mọi trường hợp nữa. Học về những quy tắc cơ bản của nhiếp ảnh là một điều tối cần thiết để vượt ra khỏi ranh giới của những người mới bắt đầu cầm máy. Tìm hiểu về bố cục, cách thức mà độ mở ống kính hay tốc độ chụp tác động lên một bức ảnh thực sự sẽ khiến kỹ năng cầm máy của bạn được nâng cao. Vấn đề nằm ở chỗ, nếu chỉ đơn giản tuân theo các quy tắc nhiếp ảnh có thể tìm kiếm đầy rẫy từ mọi nguồn trên mạng Internet, thì những tác phẩm bạn chụp ra, dẫu có đẹp và không thể chê trách, cũng sẽ chỉ luôn giống với những gì người khác đã chụp từ cả chục năm về trước. Những bức ảnh không có sự sáng tạo, được chụp từ thói quen, “bản năng”, theo một lối mòn tư duy đã cài đặt sẵn trong đầu óc bạn. Năm, mười năm hoặc thậm chí chưa lâu đến thế, khi nhìn lại những gì mình đã chụp, liệu bạn có thể nhặt ra được nhiều hơn một tấm hình để chỉ vào nó mà nói rằng: “Đây là đột phá của đời (nhiếp ảnh) tôi”? Hãy lưu ý rằng trong bài viết này, tác giả không hề phủ nhận tầm quan trọng của việc hiểu được những quy tắc căn bản khi chụp một tấm hình. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã dạy: “Thấu hiểu các nguyên tắc, để phá vỡ chúng một cách thật hiệu quả.”, điều này cũng đúng trong nghệ thuật nhiếp ảnh. Chụp hình khi trong đầu không hề có một chút kiến thức nào về nhiếp ảnh rất khác với chụp hình khi đã gạt ra khỏi đầu tất cả những kiến thức nhiếp ảnh mà mình biết. Bởi vì, nếu đơn thuần chỉ “ăn may” chụp được một tấm hình đẹp, bạn sẽ không thể biết làm sao để lặp lại chúng một lần nữa. Và bây giờ, với các độc giả thân quen đã theo dõi Chuyên đề máy ảnh số của GenK từ những ngày đầu, đã nằm lòng thế nào là ISO, thế nào là tốc độ, thế nào là khẩu độ, đã biết cách làm sao để có thể chụp phơi sáng, đã biết tạo điểm nhấn trong bức ảnh bằng quy tắc 1/3, vân vân và vân vân, dưới đây là 5 lý do để bạn cầm máy ra khỏi nhà, và tạm gạt bỏ chúng hết sang một bên để thử bắt đầu theo một cách mới… 1. Để nhiếp ảnh không phải là một thói quen nhàm chán Có bao giờ bạn gặp phải tình huống này: Cuối tuần bạn được nghỉ, bạn “phải” xách máy ra khỏi nhà vì hôm nay trời rất đẹp. Bạn “phải” chụp ảnh macro hoa lá vì bạn đang cùng vợ con đi chơi ở một vườn hoa rất đẹp. Bạn “phải” áp dụng nguyên tắc 1/3 vì bức ảnh này có đường chân trời và chủ thể rất phù hợp với bố cục đó. Vân vân và vân vân. Hay cô bạn thân nhờ bạn thực hiện giúp một bộ ảnh chân dung để tham dự một cuộc thi sắc đẹp qua ảnh. Bên cạnh bạn, cô ấy còn nhờ thêm hai anh “nhiếp ảnh gia” nữa. Ba người đều tỏ ra khiêm tốn, nhún nhường, khen ngợi và góp ý với nhau qua mỗi tấm hình. Bạn đưa máy lên ngắm chụp, và như thể có một sức ép nặng nề khiến bạn “phải” bố cục máy như thế này, đặt độ mở như thế kia, yêu cầu cô bạn tạo dáng theo cách đó. Tất cả những cái “phải” đó đều là xiềng xích bạn tự khoác lên mình sau khi đã đọc và rèn luyện hàng trăm, hàng nghìn lần theo các tài liệu dạy về nhiếp ảnh. Bạn phát ớn lên vì những tấm hình lúc nào cũng hao hao giống nhau, nhưng chúng “an toàn”. Bởi bạn lo sợ việc từ bỏ chúng sẽ khiến bạn đón nhận lại chỉ những cái chau mày và lời khen miễn cưỡng từ bạn bè, vợ con khi cho họ xem ảnh. Việc đó có thể xảy ra với mỗi lần cầm máy đi chụp, và điều đó vô tình trở thành một áp lực khiến chiếc máy bạn cầm trên tay bỗng trở nên quá nặng nề. Chụp ảnh trở thành một nghĩa vụ, một thứ công việc khác trong khi điều bạn thật sự cần khi cầm máy ra ngoài vào cuối tuần là để xả hơi, thư giãn sau một tuần làm việc căng thẳng. Đừng vội nghĩ về những gì người khác sẽ đánh giá mình từ khi mới đưa mắt vào kính ngắm. Thay vì nghĩ rằng cô bạn kia nhờ cậy vì bạn là một người có kiến thức rất sâu rộng về nhiếp ảnh, hãy nghĩ rằng ngoài kia còn rất nhiều người khác cũng nắm rõ những quy tắc không mất tiền để đọc được đầy rẫy trên mạng đó, và nếu bạn chỉ chụp được những thứ giống như họ, lần sau khi bạn bận, cô bạn kia sẽ chẳng khó khăn gì tìm được một người thay thế tốt hơn. Hãy luôn thử phá bỏ những nguyên tắc đang vô tình trở thành thứ xiềng xích khiến bạn luôn nghĩ mình “phải” làm một cái gì đó. Hãy có thể bắt đầu một ý tưởng mới, một thử thách mới trong mỗi lần cầm máy. Bạn có ống kính tele 70-200 chuyên để chụp chân dung và hoa lá trên cao ư? Sao không thử lấy nó ra và chụp những bức ảnh đời thường “lén lút”? Bạn đi chơi cùng vợ con ở một vườn hoa rất đẹp ư? Sao không thử săn lùng những bức ảnh chụp con ong đang hút mật? 2. “Sai số” đôi khi là giải pháp duy nhất, hoặc tốt hơn Mọi phép tính luôn tồn tại một hoặc nhiều hơn một sai số. Nhiều khi bạn cứ cố áp đặt chủ thể vào một đường dọc mạnh nhưng bức ảnh không thể thành công vì hậu cảnh phía sau quá rối rắm với đường chân trời xiên xẹo. Sao không thử “ném” chủ thể vào chính giữa khung hình, và tiến lại gần sát hơn để tận dụng chủ thể như một bức phông màn che đi những “rác rưởi” phía sau? Hành động đó có thể là “sai số” trong nguyên tắc 1/3, nhưng lại được biết đến với cái tên khác là “tính cân đối trong bố cục” và “kỹ thuật làm đầy khung hình”. Thú vị, phải không? 3. Thử sức sáng tạo giúp bạn tôn trọng hơn những gì bạn không hiểu Chúng ta vẫn thường đi xem những triển lãm tranh của một họa sỹ ABC XYZ rất thành công và nổi tiếng nào đó. Đứng hồi lâu trước một bức tranh, rồi khẽ huých khuỷu tay nhau và hỏi nhỏ: “Hiểu gì không?” trước khi lẩn ra một góc khuất và cười hô hố: “Siêu thực mà, siêu thực phải thế, làm sao mà hiểu được!” Vấn đề là đằng sau nụ cười giễu cợt đó, trong thâm tâm bạn tự biết mình không thể vẽ được cái giống như họ. Bạn không biết họ đã sử dụng những kỹ thuật gì. Thậm chí bạn không biết cả cách họ đã pha màu ra làm sao. Cố gắng phá vỡ những nguyên tắc căn bản được học để nhận ra việc đó khó đến nhường nào – bởi “ngoài trời còn có trời”, thứ mà bạn tưởng như mình đang “sáng tạo” đa phần đều chỉ là một thứ còn trong bóng tối nằm ngoài sự hiểu biết của bạn – sẽ giúp bạn biết tôn trọng hơn những nỗ lực của các cá nhân khác đã làm để tạo nên sự đột phá và thiết lập những bước phát triển cao hơn trong lịch sử nhiếp ảnh. 4. Bạn chẳng mất gì khi sáng tạo Thời kỳ của những cuộn phim… Thời kỳ mà mỗi lần nhấn chụp là một lần ta thấy ví tiền nằm trong túi quần mình mỏng đi đã qua lâu rồi. Chụp – không ưng – xóa – chụp – không ưng – xóa… Thậm chí còn chẳng cần xóa khi công nghệ kỹ thuật số ngày nay đã tạo ra những chiếc thẻ nhớ với dung lượng lên đến vài trăm Gb, những chiếc ổ cứng di động nhỏ như business card với dung lượng lên đến hàng Tb. Cũng đừng lôi “tuổi thọ màn trập” vào đây để bảo thủ ý kiến rằng mỗi lần bấm sẽ khiến máy… mòn đi một ít. Rồi bạn sẽ mau chóng nhận ra rằng, chiếc máy luôn bị bán đi vì chúng ta “ham vui” với công nghệ mới trước khi chúng đạt đến ngưỡng phải thay màn trập. 5. Nguyên tắc cũng chỉ được xây dựng từ những người khác Nhiếp ảnh, cũng như mọi ngành nghề khác, đứng trên đôi vai của những kẻ khổng lồ: Avedon, Adams, Karsh, v..v.. danh sách này là bất tận. Chúng ta học hỏi từ họ cách sử dụng ánh sáng tự nhiên, cách xếp đặt chủ thể, cách lựa chọn một chiếc máy và ống kính, chúng ta thuộc nằm lòng những phát ngôn về nhiếp ảnh của họ và chúng ta trở thành những đệ tử không được thừa nhận của họ. Nếu may mắn và tài năng có đủ, chúng ta chụp được những tấm hình gần đạt tới đẳng cấp thế giới. Nhưng với tất cả những ai hiểu biết về nhiếp ảnh, và quan trọng hơn, với chính bản thân chúng ta, những bức ảnh đó chỉ đơn giản là một sự sao chép. Điều đó cũng giống như “hàng fake loại 1”, “hàng nội địa Trung Quốc” hay hàng gì đi chăng nữa thì cũng chỉ là một sự sao chép rẻ tiền từ những gì người khác đã làm ra. Tất nhiên, bạn có thể cho rằng việc sáng tạo là của những người khác, của những người sống bằng nghề nhiếp ảnh, nổi tiếng bằng nghệ thuật nhiếp ảnh chứ không phải là việc của chúng ta, những người cuối tuần cầm máy đi chơi để làm giàu thêm đời sống tinh thần. Nhưng ít ra, nó cũng khiến “cuộc chơi nhiếp ảnh” của chúng ta được trở nên thú vị hơn. Để chúng ta đừng quên đi mất lý do mình đã bỏ ra cả một số tiền lớn để mua lỉnh kỉnh những body và lens thay vì một chiếc máy du lịch rẻ tiền là gì. Tìm tòi, khám phá, trong mọi lĩnh vực luôn có sự liên đới lẫn nhau. Giữ cho đầu óc mình được tư duy sáng tạo luôn là một liều thuốc tốt để phá vỡ một nếp sống trì trệ.
Bác hướng dẫn mọi người chụp ảnh lấy cảnh gần và lấy cảnh xa đi bác, Ví dụ chụp người thì lấy gần, còn cảnh ở xa nó sẽ mờ đi ấy.