TÌM HIỂU VỀ THIẾT BỊ PDA 1.1. Tổng quan Ngày nay Công nghệ thông tin đang ngày càng phát triển, có tác động ngày càng mạnh mẽ đến công việc cũng như cuộc sống của con người. Bắt đầu từ chiếc máy tính tính vào đầu thế kỷ 20 rồi đến chiếc máy vi tính và sau này là chiếc máy tính cá nhân (PC) đã tạo nên một cuộc cách mạng trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống và khoa học giúp cho con người tăng được đáng kể tốc độ và năng suất làm việc của mình trong công sở. Hơn thế nữa, sự ra đời của các thiết bị cầm tay (handheld device) trong những năm đầu thập kỉ 80 còn tạo ra những điều kỳ diệu mới cho cuộc sống và công việc của con người. Việc phải mang 1 cái máy Fax cồng kềnh hay 1 quyển sách nhỏ để ghi sổ điện thoại và những công việc sẽ phải làm khi đi công tác đã khiến cho các nhà kinh doanh phải rất khó khăn trong việc liên lạc với thế giới xung quanh với những chiếc máy điện thoại cố định hay việc phải xử lý các công việc cần sự linh động hoặc với những công việc cần phải chia nhỏ để có thể làm việc với nó mọi lúc mọi nơi. Và công nghệ di động ra đời giúp giải quyết các vấn đề này. Các thiết bị tính toán di động có kiến trúc giống như máy để bàn hoàn toàn tương thích các phần mềm có sẵn và có thể làm việc không cần đến nguồn điện trực tiếp trong nhiều giờ liền. Và trong số những thiết bị đó thì PDA và Pocket PC nổi lên như những đại diện mang đầy đủ các đặc tính thích hợp nhất để đáp ứng các nhu cầu của người sử dụng. 1.2. PDA PDA là gì ? Persional Digital Assistant - Thiết bị trợ giúp kỹ thuật số cá nhân, xây dựng trên nền tảng là một máy tính cá nhân bỏ túi đầy đủ phần cứng và mềm dễ dàng sử dụng. Ðiều đã làm PDA trở nên gần gũi là sự kết hợp gắn bó giữa sức mạnh của máy tính để bàn và khả năng di chuyển cao của PDA. Giữa chúng có một mối liên hệ cá nước chặt chẽ qua hàng loạt các thiết bị phụ trợ trao đổi thông tin dễ dàng sử dụng. 1.2.1. Thế hệ đầu tiên Lần đầu tiên xuất hiện PDA chỉ đơn giản là một chiếc máy tính cầm tay với các ứng dụng cơ bản như đồng hồ, máy tính, danh bạ điện thoại, lịch làm việc, sổ địa chỉ….Chiếc máy PDA thật sự đầu tiên ra đời năm 1984, Psion 1 từ UK technologies có kích thước 142mm x 78mm x 29.3mm, và chỉ nặng 225 grams, được làm từ công nghệ 8 bit, với 10K bộ nhớ, màn hình 16-ký tự LCD, có một đồng hồ và lịch kèm theo một bộ các hàm tính toán toán học. Các hỗ trợ kèm theo chiếc máy này là các thư viện toán học và lập trình với OPL. Cùng thời gian này thì Apple cũng cho ra đời chiếc PDA trên cơ sở dùng bút quang có tên là Newton. Đây là một thiết bị không được thị trường chấp nhận vì kích cỡ và khối lượng của nó, hơn nữa, nó lại bị hạn chế trong việc nhận biết các ký tự viết tay và rất nhiều các tính năng mà người mua không thật sự cần thiết trong thời kỳ này. 1.2.2. Thế hệ thứ hai Tháng 3 năm 1995, Palm Pilot, một PDA được thiết kế để làm việc một cách hợp lý khi di chuyển được Palm Computing Corp giới thiệu. Thay vì theo bước Apple trong việc tạo nhiều tính năng cho Newton, Palm quyết định gây sự chú ý của thị trường bằng một chiếc máy có tốc độ cao và hiệu quả dựa trên những tính năng cơ bản như việc ghi chú, quản lý các mối quan hệ, thời gian và công việc một cách tốt nhất. Chiếc Palm Pilot đầu tiên Professional ra đời với 1 Mb RAM, trong khi Pilot 1000 chỉ có 128Kb. Palm Pilot đã trở nên thật sự phổ biến như là một chiếc máy tính bỏ túi với màn hình nhạy cảm có thể ghi lại những hoạt động hàng ngày của bạn và kết nối với PC. Palm Pilot đã trở thành chuẩn mực của thế hệ PDA thứ 2, có khả năng kết nối với PC, màn hình nhạy cảm, nhận dạng chữ viết tay. Các modul của Pilot được thiết kế cho phép dễ dàng gắn thêm hay gỡ bỏ các thiết bị phụ trợ để tạo dáng vẻ hấp dẫn như 1 thứ đồ trang trí. Nó nổi bật ở tính thiết thực, sự dễ sử dụng, và sự thoải mái khi di chuyển. Palm Pilot đã bán được hơn 1 triệu cái trong năm đầu tiên. 1.2.3. Pocket PC Mặc dù Palm là loại PDA phổ biến nhất trên thị trường song Microsoft Windows CE với giao diện đầy màu sắc và Pocket PC với PocketPC’s Media Player ở thế hệ thứ 3 đã và đang tăng dần thị trường của mình. Hệ điều hành cài đặt sẵn trong ROM: Phiên bản đầu tiên là Windows CE 1.0: 1998. Là một bản rút gọn của hệ điều hành Windows 32 – Bit nổi tiếng của Microsoft. Dễ dùng và quen thuộc với người dùng MS Windows. Kích thước tối thiểu trên 3MB. Bộ nhớ: Thường là 16-32M, (chứa được khoảng 3-4 bài hát Mp3) Màn hình: Đen trắng hoặc màu (16 bit), kích thước lớn hơn so với Palm, có chế độ ánh sáng nền, có thể làm việc trong điều kiện thiếu sáng. Độ phân giải thường là 240x320. Các loại máy Pocket PC có màn hình TFT độ phân giải cao hơn so với máy Palm. Các nút chức năng và truy cập nhanh đến ứng dụng: Pocket PC thường có 7 nút chức năng (power, Home, Contact, Calendar, Task, Up, Down) và không có các nút truy cập nhanh. Kết nối với các thiết bị ngoại vi: Máy tính, máy ảnh số, hệ thống định vị vệ tinh, điện thoại di động, có khe cắm cho các thiết bị nhớ mở rộng RAM, cổng kết nối USB, serial, hồng ngoại. Công cụ nhập dữ liệu: Có bàn phím trên màn hình, bàn phím có kích thước chuẩn PC gắn kèm, có khả năng nhập dữ liệu bằng phần mềm nhận dạng chữ viết tay. Khả năng Multimedia: Tốt ( thường có Mp3, loa, micro, Video Player...), có khả năng ghi âm. Tiêu thụ điện năng: 10-15 tiếng. Dùng pin thường hay pin xạc. Ngốn nhiều điện năng do tốc độ CPU cao, nhiều thiết bị multimedia... màn hình rộng. 1.2.4. PDA trong tương lai PDA sẽ sử dụng SD (Secure Digital) để phát triển tiềm năng trong tương lai. Thị trường PDA thật sự rất hứa hẹn. Kích thước nhỏ gọn và tiết kiệm điện năng là những lợi thế của PDA tỏ ra rất phù hợp với việc truyền dẫn không dây và sự sử dụng máy dựa trên máy chủ. PDA sẽ ngày càng nhỏ và nhẹ hơn, thực hiện được nhiều chức năng hơn. Rất có thể trong tương lai PDA sẽ sử dụng năng lượng mặt trời, cho phép làm việc ngay cả khi đang di chuyển với việc truy nhập Internet không dây. Dữ liệu sẽ được đảm bảo hơn với việc lưu trữ từ xa. Trên thực tế, chúng ta đã thấy các thiết bị dùng công nghệ BlueTooth và WAP cho phép trao đổi thông tin, truy cập Internet không dây với các thiết bị BlueTooth khác mà không phải lo nghĩ gì về sự tương thích đang là một trở ngại ở các tia hồng ngoại đang dùng trong các máy PDA. Hãy tưởng tượng, chúng ta có thể trao đổi số điện thoại với chỉ 1 “thủ tục bắt tay” và lưu thông tin ngay từ xa lên 1 máy chủ. Sự phát triển của Personal Area Network (PAN) của cơ quan nghiên cứu mối quan hệ giữa máy tính với con người của IBM (IBM Research’s Human Computer Interaction) chia thành các bước khác nhau trong việc tái phát minh ra PDA. PDA có thế trở thành một phần của cơ thể con người, cho phép trao đổi, truy cập dữ liệu với những thao tác đơn giản hay truy cập Internet thông qua ý nghĩ có thể trở thành hiện thực trong tương lai gần khi mà con người có thể cấy ghép các thiết bị điện tử vào cơ thể. Sự tích hợp nhiều tính năng khác nhau trong PDA có thể đem đến một sự tiện lợi chưa từng có. Ví dụ như PDA có thể là một chiếc điều khiển từ xa tất cả các thiết bị trong ngôi nhà của bạn. Việc nhận dạng giọng nói và chữ viết sẽ được cải tiến đáng kể. Cùng với ứng dụng nguyên lý xoắn, trí tuệ nhân tạo sơ khai sẽ được biết đến như là một chiếc PDA đa chức năng có thể tự động kiểm soát môi trường làm việc của máy tính với đầy đủ các tùy biến thích hợp. 1.2.5. PDA được tạo nên như thế nào? a. Màn hình Kế thừa các tính năng ưu việt của công nghệ điện tử di động PDA trang bị cho mình màn hình tinh thể lỏng (TFT) tốt nhất chịu đựng được môi trường, rung và va đập, màu sắc và ánh trung thực tiêu tốn ít năng lượng nhất. Hiện có hai công nhệ khác nhau để sản xuất màn hình. Thông thường là công nghệ chiếu sáng nền, các máy sử dụng công nghệ này cho phép người dùng dễ dàng quan sát các ứng dụng trên màn hình, nhưng tốn pin. Trong khi đó với công nghệ màn hình phản chiếu, dù vẫn có chiếu sáng nền nhưng máy chỉ hoạt động tốt khi ở ngoài trời hoặc những nơi có ánh sáng tốt. b. Pin Nhiều máy sử dụng pin có thể nạp lại, tiêu biểu trong số này có pin lithium-ion, là loại pin có hiệu suất cao nhất hiện nay, nhưng đa số cá loại máy đơn sắc và các model rẻ tiền đều dùng pin AAA. Với các máy có màn hình đơn sắc, có thể dùng hơn một tháng mới hết pin, trong khi chỉ dùng được khoảng hơn 10 giờ đối với các loại máy có màn hình màu. c. Nhận dạng chữ viết tay và nhập dữ liệu Ðây là một trong những yếu tố quyết định của PDA, công nghệ này xây dựng dựa trên việc người dùng sử dụng cây bút điện tử viết trực tiếp lên màn hình và PDA nhận dữ liệu chuyển chúng thành các văn bản đẹp hoặc lưu trữ chúng giống như các cuốn sổ tay điện tử, công nghệ Graffiti được ứng dụng rộng rãi. d. Liên lạc, kết nối Phụ thuộc vào các hãng sản xuất và model chủ yếu ngày nay, các PDA đều có thể kết nối với nhau hoặc với PC qua cổng serial, hồng ngoại, modem trong kết nối qua đường điện thoại và cả điện thoại di động. IrDA và Bluetooth sẽ là giao tiếp chuẩn cho PDA. Đồng thời, PDA có cả kết nối qua hệ thống sóng phát thanh, truyền hình, vệ tinh. Một trong những thiết bị mở rộng không thể thiếu của PDA là card mở rộng và card nhớ. e. Các phần mềm ứng dụng. Bộ phần mềm PIM (Persional Infomation Management) là linh hồn của PDA, bao gồm các chương trình nhỏ về các công việc chủ yếu như: § Lập lịch làm việc § Danh bạ điện thoại § Soạn thảo văn bản § Ảnh và bản vẽ § Phần mềm tài chính § Máy tính § Báo thức, đồng hồ § Quản lý tập tin § Ghi âm thanh § Chuyển giao giữ liệu, liên lạc § In ấn Ngoài ra với các PDA khác còn có kèm thêm : Email, FAX online và Web Browser, trình xử lý văn bàn, bảng tính, từ điển đánh vần ... Ngoài ra còn có hàng loạt sản phẩm phần mềm về các công việc chuyên môn được viết riêng cho PDA như tìm đường bằng GIS kết hợp GPS, thu thập các số liệu điều tra hiện trường, điều khiển các dây chuyền sản xuất... HỆ ĐIỀU HÀNH VÀ CÔNG CỤ LẬP TRÌNH CHO PDA 2.1. Hệ điều hành 2.1.1. Tổng quan Hầu hết các PDA sử dụng một trong 3 hệ điều hành : Windows CE, EPOC và PalmOS. Đã bắt đầu có một số sản phẩm PDA được giới thiệu cùng với Linux. Song song với các phiên bản Windows trên PC, Microsoft phát triển Hệ điều hành Windows CE giành riêng cho PDA cùng các đối tác mạnh mẽ như : NEC, Motorolla và Philips. Phiên bản Windows CE được xây dựng giống như Windows 95 hoạt động tương thích cùng các bộ vi xử lý từ Motorolla cung cấp, cho PDA giao diện đồ hoạ với dáng vẻ Windows quen thuộc, mặc dù còn quá cồng kềnh nhưng Windows CE đã không ngừng thay đổi từ phiên bản 1.0 đến 2.0 trở nên một đối thủ cạnh tranh đáng nể. Mặt khác cùng với Visual Studio cho Windows CE Microsoft đã làm cho việc viết và phát triển các ứng dụng trên PDA trở nên thật dễ dàng. Microsoft hy vọng với bản Windows CE mang tên mã Rapier sẽ là bước nhảy vọt của Công ty trong thế giới PDA. EPOC - Hệ điều hành truyền thống trên PDA của Psion chiếm 70% thị trường (1999), với những ưu điểm vốn có của mình, được sự ủng hộ mạnh mẽ của Nokia, Motorolla, Erisson và Symbian đang hoà nhập PDA và điện thoại di động qua hàng loạt các công nghệ không dây tiên tiến. Các công ty tin tưởng EPOC sẽ là hệ điều hành cho không chỉ PDA mà cả các thiết bị không dây trong tương lai. Số lượng các công ty sản xuất PDA được cấp phép bởi Palm OS ngày càng tăng lên như SONY, IBM, Handspring,... hệ điều hành này thật sự đã làm được nhiều điều hơn mong muốn và đưa PDA vào kỷ nguyên mới. Hiện nay, chiếm khoảng 80% thị trường theo các chuyên gia dự đoán đây sẽ là hệ điều hành tương lai cho PDA. 2.1.2. Windows CE 2.1.2.1. Giới thiệu chung Microsoft đã phát minh ra Windows CE như một hệ điều hành nhỏ, có cấu hình, kết nối tốt, và là một hệ điều hành thời gian thực (RTOS). Khi cân nhắc các tính năng xây dựng—một kiểu chương trình đa tuyến đoạn, quản lý bộ nhớ tinh vi, một bộ lớn các điều khiển thiết bị, và một bộ công cụ gỡ rối và phát triển hoàn chỉnh. Điều này có vẻ là nghịch lý. Một hệ điều hành vừa nhỏ và nhiều tính năng có thể làm việc như thế nào? Câu trả lời là: Windows CE là hệ điều hành có cấu hình cao, ta có thể chỉ cần mức độ cung cấp MINKERN, cần 350KB, xây dựng chương trình không có đồ họa, không có cửa sổ và không có giao diện người dùng—vừa phục vụ phần mềm cơ bản và vừa hỗ trợ mạng máy tính. Nhưng với phần mềm đó ta nhận được sự hỗ trợ của đa xử lý, chương trình đa đoạn tuyến, liên kết thư viện động, và quản lý bộ nhớ ảo, cũng như một mảng các thiết bị điều khiển vào ra và một bộ nhiều các đối tượng của Win32. Và nếu MINKERN không cung cấp tất cả những gì ta cần, điều đó không thành là vấn đề. Bởi Microsoft cung cấp một dải rộng xây dựng các tham biến (như là MINSHELL, MININPUT, và MAXALL) dùng để bắt đầu, tất cả đều có thể được bổ xung với hàng trăm thành phần từ giả lập xây dựng trên Windows CE, hoặc từ một hệ thống hợp nhất đặc biệt trong Windows CE. Cách đây không lâu Windows CE 3.0 đã có cải thiện trong hỗ trợ tốc độ xử lý của máy trong các phiên bản trước đó. Nó đã thêm các hỗ trợ có thể gọi ngắt, nhiều mức độ ưu tiên phân đoạn, và chọn lọc chế độ thời gian làm việc hệ điều hành Windows CE. Các nhà phát triển có thể điều khiển trên thời gian làm việc hệ thống, với một vùng rộng của các tính năng mà hỗ trợ giúp đỡ tốc độ xử lý cho hệ thống. Tất nhiên, nếu chỉ có sự hỗ trợ này, tốc độ xử lý của máy trong hệ điều hành không đảm bảo được rằng nó có thể đáp ứng tốc độ xử lý phù hợp cho mọi hệ thống. Sự hỗ trợ tốc độ xử lý trong một hệ điều hành là một sự cần thiết, nhưng nó không đủ cho việc xây dựng một hệ thống mà cung cấp đầy đủ tốc độ xử lý sẵn có của máy. Bạn thường cần một CPU đủ nhanh để nạp chương trình vào, các điều khiển thiết bị hoạt động hợp lý, và các chương trình phần mềm ứng dụng đó sử dụng đoạn tuyến ưu tiên cao chuyên dụng để làm việc trong thời gian tối đa. Và thậm chí sau đó, nhóm phát triển cần định rõ thời gian xử lý của nó với mỗi tác vụ, và quá trình xử lý đặc biệt với các tác vụ yêu cầu thời gian ngắn và xảy ra thường xuyên. Nếu ai đã từng làm việc với hệ điều hành Windows CE, chắc hẳn sẽ cảm thấy hài lòng và ngạc nhiên với những gì mà chúng ta thấy. Microsoft đã phát triển và hỗ trợ phiên bản này của Windows—và công cụ này cần được xây dựng phần mềm cho nó—từ khi Windows CE 1.0 được tìm ra vào năm 1996. Ngày nay, có hàng trăm những thiết bị khác nhau được trang bị bởi Windows CE. Thiết bị được biết đến nhiều nhất là Pocket PC và Handheld PC (HPC). Ngoài ra cũng có rất nhiều các thiết bị khác sử dụng trên Windows CE. Trong các thiết bị giải trí ở nhà và các trò chơi Sega Dreamcast cũng sử dụng Windows CE. Trong các khu công nghiệp tự động, có các chương trình điều khiển tự động và các thiết bị phụ trợ khác cũng sử dụng trên Windows CE. Các thiết bị thu thập dữ liệu di động, mã số kẻ trên hàng hóa (code readers), máy nói tự động, và máy ảnh kỹ thuật số có thể được liệt kê vào danh sách sử dụng Windows CE. Nếu vừa mới bắt tay vào xây dựng phần mềm cho Windows CE, khẩu hiệu của ta sẽ là “sự lựa chọn”. Có nhiều các công cụ để ta lựa chọn cho việc xây dựng và phát triển các chương trình trong Windows CE. Ta có thể viết cho Win32 API sử dụng C hoặc C++ bằng đoạn chương trình nhỏ và nhanh. Nếu ta cần tìm kiếm một vài chương trình mẫu, ta có thể sử dụng thư viện của MFC. Để tạo một điều khiển và thành phần ActiveX, ATL đã hỗ trợ việc này. Nếu ta thành thạo trong sử dụng Visual Basic, ta có thể xây dựng chương trình ứng dụng dựa trên cơ sở của Visual Basic cho Windows CE sử dụng eMbedded Visual Basic—một sự kết hợp giữa 2 trình duyệt cơ sở VBScript và Visual Basic máy tính để bàn. Và có nhiều công cụ lựa chọn để làm công việc này. Trong tương lai, như Microsoft .NET đang bắt đầu được triển khai, các phiên bản dịch của C# cho Windows CE được đưa lên kế hoạch, cùng với thư viện .NET - thư viện khung làm việc cho Windows CE. 2.1.2.2. Windows CE: Có cái gì, không có cái gì? Windows CE bao gồm một tập hợp các tính năng cũng như hệ điều hành của máy tính để bàn. Nhưng tập hợp ở đây theo ý của tôi là chưa đầy đủ. Tính năng bao gồm của Windows CE miêu tả một tập hợp lựa chọn cẩn thận, cân bằng giữa lợi ích của các tính năng, đòi hỏi một chừng mực của phần nhớ sử dụng. Hữu ích lớn nhất, sử dụng rộng rãi nhất, phổ biến nhất và tính năng mạnh nhất đã được mang sang từ Windows của máy tính để bàn sang Windows CE. Thế còn cái gì đã loại bớt đi? Các nhiệm vụ không cần thiết đã giản lược đi bớt, ví dụ như, bạn chỉ có một chức năng soạn văn bản đồ họa thay vì hai chức năng. Một loại khác của sự lược bớt đó là nó hỗ trợ cho các chương trình kế thừa (Win16) trên máy tính để bàn, vì vậy, không có sự hỗ trợ cho việc đọc và viết các file .INI —trong Windows CE ta sử dụng đăng ký chức năng để lưu trữ, bố trí chương trình. Các điều này có nghĩa là quá lớn vì vậy phải được giảm bớt đi, như Messaging API (MAPI). Khi MAPI không tự hỗ trợ được nó có một thông điệp lưu trữ API cho việc truy nhập vào chương trình Pocket Outlook một cách tự động. Nói chung, bạn sẽ tìm được rất nhiều sự hỗ trợ cho các tính năng của chương trình ứng dụng của bạn cần. Đôi khi một nhà phát triển sẽ khó chịu về những thứ không tạo ra để chuyển sang Windows CE. Có thể nói là việc gọi một chức năng của Win32, một MFC class, hoặc một điều khiển Visual Basic. Khi bạn gặp một trong những việc trên, thường chỉ có một cách để làm những gì bạn muốn. 2.1.2.3. Unicode Windows CE là hệ điều hành đầu tiên của Microsoft đòi hỏi kí tự Unicode trong văn bản. Unicode là một bộ kí tự được tạo bởi côngxoocxiom của các công ty máy tính, và được thống nhất bởi tiêu chuẩn của các tổ chức quốc tế. Không giống như các byte đơn lẻ các bộ ký tự được dùng cho các ngôn ngữ ở Châu Âu và Bắc Mỹ, hoặc chộn lẫn các ký tự byte kép và byte đơn sử dụng cho các ngôn ngữ Đông Á, tất cả các ký tự Unicode được đưa lên 2 byte. Tất cả các chương trình API cho Windows CE —Win32, MFC, hoặc Visual Basic—đều dựa phần lớn vào cơ chế Unicode trong các xâu văn bản. Sự tác động này của Unicode còn tùy thuộc vào chương trình ứng dụng có nhận dữ liệu từ bên ngoài hay không. Nếu bạn sử dụng các file dữ liệu đã được tạo trên một máy tính, bạn có thể phải chuyển các chuỗi kí tự này sang Unicode. Rất nhiều modem gửi thông tin trạng thái và chấp nhận các lệnh sử dụng một byte chuỗi ký tự. Có một vài vấn đề tiếp cận vớI Unicode mà nên quan tâm tới. Khi làm việc với các socket, tất cả các tham số chuỗi kí tự là các chuỗi theo tiêu chuẩn của ANSI (American National Standards Institute - Viện tiêu chuẩn quốc gia Hoa Kì), chứ không phải Unicode. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nếu nói theo kĩ thuật thì những hàm của các Windows Socket không phải là một phần của Win32 API. Cuối cùng, Windows Socket được phát triển bởi một nhóm các lập trình viên về mạng, họ lập ra một API mới. Sự tác động này của Unicode sẽ có thể làm ảnh hưởng xấu tới các chương trình ứng dụng. Sự xao nhãng thứ hai bao gồm Windows Internet (WinInet) thư viện API. Về chức năng này, bạn sẽ tìm thấy cả phiên bản ANSI và Unicode cho mỗi chức năng lấy một xâu kí tự. Ví dụ, bạn sẽ nhận thấy cả InternetOpenA và InternetOpenW hỗ trợ trên các thiết bị Windows CE-based —handy.. Sự xao nhãng thứ ba là trong điều khiển file hệ thống miễn là với eMbedded Visual Basic cho thực hiện vào ra file. Không giống như phiên bản Visual Basic của máy tính để bàn, không có các câu lệnh được cài đặt sẵn cho việc truy nhập file. Để thay thế, ta cần sử dụng một điều khiển ActiveX. Khi điều khiển ActiveX có thể đọc cả ANSI và Unicode, nó chỉ viết các kí tự ANSI. Trong chương trình ví dụ VBEdit , bạn có thể thấy được một công việc xung quanh sử dụng chức năng tự nhiên của Win32 để viết kí tự Unicode sang file. Windows CE hỗ trợ Win32 trừ handling (the __try and __except keywords) cũng như các thiết bị cầm tay đầu cuối handling (__try and __finally). Những điều này sẽ giúp bạn thiết lập một sự bảo vệ sang mã của bạn để có thể nắm được các lỗi với các con trỏ sai, tràn bộ nhớ và các lỗi trong toán, và lỗi division-by-zero. Trong khi những ngoại lệ của Win32 xuất hiện, những ngoại lệ của C++ thì lại không. Các chương trình C++ biết tính năng này như một tính năng định hướng đối tượng tương đương của các ngoại lệ của Win32, truy cập với từ khóa giống như sự thử, nắm bắt và liệng đi. Cũng như các phiên bản của Windows của máy tính để bàn, Windows CE được xây dựng trên sự thiết lập các liên kết động của các thư viện. Bạn sẽ nhanh chóng nhận ra rằng các DLL quen thuộc từ màn hình nền —phần mềm kernel32.dll, user32.dll, and gdi32.dll— được thay thế bởi một thư viện chính coredll.dll. Và cũng giống như trên máy tính để bàn, DLLs có thể giữ được các code chương trình, dữ liệu và các tài nguyên. Như máy tính để bàn, một chương trình có thể gọi một kết nối tĩnh tới một DLL, hoặc một động lực kết nối bằng việc gọi LoadLibrary (hoặc LoadDriver để tải và khóa DLL trong bộ nhớ). Có một vài sai sót khác trong mức phần mềm hỗ trợ từ những gì bạn thấy trên các màn hình nền trong các phiên bản của Windows. Và một điều nữa, nó không hỗ trợ cho các sợi—các đối tượng lập chương trình nhẹ thiết lập trong Windows 2000. Ngoài ra, các kiểu bảo mật phức tạp của Windows 2000— với miêu tả bảo mật và truy cập các danh sách điều khiển thì không thực hiện trong Windows CE. Bảo mật hoàn toàn bị bỏ đi, tuy nhiên trong Windows CE lại hỗ trợ các Secure Sockets Layers (SSL) và sự bảo mật hóa các APIs. 2.1.2.4. Quản lý bộ nhớ Tổng quát, Windows CE được xây dựng để thực hiện công việc tốt trên các thiết bị nhỏ, trong các bộ nhớ nhỏ, trong các thiết bị có thể mang đi được, các thiết bị hoạt động bằng pin. Windows CE đòi hỏi một little-endian, xử lý 32-bit và được xây dựng để sử dụng cách đánh số trang bộ nhớ ảo. Mỗi bộ xử lý Windows CE có một địa chỉ ảo 32MB. Bộ nhớ này là rất nhỏ, nhỏ hơn nhiều so với các phiên bản của Windows trên máy tính để bàn-cái cung cấp một địa chỉ xử lý lên tới 2GB. Nếu nhìn qua, điều này dường như là một sự khác biệt đáng kể. Nhưng khi bạn cân nhắc rằng một thiết bị với nền Windows CE điển hình có 16 hoặc 32MB bộ nhớ vật lý RAM, nó dường như bạn sẽ chạy ra ngoài bộ nhớ vật lý trước khi bạn chạy ra ngoài địa chỉ ảo. Các chương trình ứng dụng đó cần được làm việc với các đối tượng lớn hơn có một cổng sau: chia sẻ bộ nhớ được phân bổ từ một phần của gigabyte-sized của không gian địa chỉ. Mặc dù tầm quan trọng trong những phần của bộ nhớ là như vậy, Microsoft vẫn không tiết kiệm trong bất cứ một tính năng liên quan tới bộ nhớ. Với một ngoại lệ-các hàm trong họ GlobalAlloc có mang các tính năng—toàn bộ bộ nhớ API của Win32 được mô tả trong Windows CE. Bạn phân bổ các trang bằng việc gọi VirtualAlloc, phân bổ từ một bộ nhớ riêng với malloc, LocalAlloc, hoặc các toán tử mới của C++. Một điểm khác biệt của hệ điều hành máy tính để bàn và Windows CE là Windows CE không hỗ trợ các trang file. Vì vậy trong khi một số nhỏ các file khả chạy (.EXE và .DLL) có thể được yêu cầu tải vào bộ nhớ, Windows CE không có file.sys để tạo ra một loại bộ nhớ ảo mà bạn có thể tìm thấy trên các hệ điều hành xây dựng cho các máy lớn. 2.1.2.5. Lưu trữ đối tượng Windows CE cung cấp 3 nơi để lưu chứa dữ liệu: trong file hệ thống, trong nơi đăng ký (nhiều như trong đăng ký của các phiên bản Windows), và trong cơ sở dữ liệu. Tất cả 3 nơi này đều nằm cạnh nhau trong bộ nhớ RAM trong một vùng bọi là vùng lưu trữ đối tượng (object store). Trong Windows CE 3.0, đối tượng được lưu trữ có thể lên tới 256MB (giới hạn của các phiên bản trước kia của Windows CE chỉ là 16MB). Trong file hệ thống ,hỗ trợ một cấu trúc thư mục có thứ tự, có đường dẫn lớn nhất dài tới 260 ký tự, hoặc MAX_PATH—như trong desktop. Các giới hạn phổ biến có nghĩa là bạn có thể tự do di chuyển các file dữ liệu—với những đường dẫn không bị thay đổi—giữa một là các thiết bị Windows CE-based và một là máy tính cá nhân Windows-based. Một điều khác nữa là từ máy tính để bàn là các ổ (A:, C:, D:, và nhiều hơn nữa) thì không được hỗ trợ trong Windows CE. Tự đối tượng lưu trữ như được lưu trữ trong RAM, nhưng trong Windows CE có thể dễ dàng cung cấp các phương tiện từ tính như floppy diskettes, hard drives, và CDs. Nhiều thiết bị thường có một Compact Flash (CF) cắm vào giúp bạn có thể cầm một thẻ lưu trữ mà sử dụng bộ nhớ flash. Bộ nhớ trong những chiếc card này vùng nhớ ở các thẻ lưu trữ này chỉ có giá trị mở rộng không gian lưu trữ hệ thống file; nó không có tác dụng mở rộng không gian thực thi chương trình. 2.1.2.6. Hỗ trợ COM và DCOM DCOM là mô hình đối tượng của Microsoft, có căn nguyên từ DDE (Dynamic Data Exchange) là hệ truyền thông điệp dùng để trao đổi thông tin giữa các chương trình trong Windows. DDE được dùng trong OLE (Object Linking and Embedding), một phương pháp để nhúng các liên kết vào đối tượng trong chương trình và tài liệu. Từ đó phát triển thành COM, ngày nay trở thành nền tảng để liên kết tất cả đối tượng, và cuối cùng là DCOM và ActiveX (về cơ bản là DCOM hỗ trợ cho Internet). DCOM là mở rộng của COM trên mạng. Microsoft mô tả DCOM như một “COM có dây dài”. Ý tưởng đằng sau công nghệ thành phần là chia các ứng dụng lớn và phức tạp thành các đơn thể phần mềm nhỏ hơn để dễ phát triển, cải biến và nâng cấp. Bằng cách chia ứng dụng thành nhiều phần, các tác động của thay đổi hoặc nâng cấp chỉ ảnh hưởng đến các thành phần riêng biệt, chứ không đến toàn bộ chương trình. Lôgíc của các ứng dụng, truy xuất thông tin, theo dõi giao tác, biểu diễn dữ liệu, và quản lý có thể chạy trên các máy tính khác nhau, và chúng liên lạc với nhau để cung cấp cho người dùng các giao diện liên thông. Microsoft DCOM có tất cả các nét của COM và mở rộng lên mạng. DCOM làm việc với TCP/IP, ngôn ngữ Java, và HTTP (Hypertext Transfer Protocol). Nó cung cấp các phần tử hàn gắn (binding) để mở rộng các thành phần qua mạng. Nó được thiết kế để chạy trên Windows 95, Windows NT, Macintosh, UNIX, và các hệ điều hành cũ khác. DCOM cũng trung lập với ngôn ngữ, nghĩa là các thành phần có thể được viết bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Web browser là “container” phổ biến nhất để chạy các thành phần. Người dùng lấy về các thành phần từ những nơi họ thăm. Các thành phần nầy có thể được lưu trữ trên máy tính người dùng để dùng lại về sau, hoặc lưu trong vùng cache, có thể bị xóa sau một thời gian. COM (Common Object Model) - Mô hình Đối tượng chung - là tập cha của mô hình đối tượng thành phần OLE (Object Linking and Embedding). Microsoft và DEC định nghĩa COM để đưa ra một chuẩn tương thích với nhiều hệ điều hành, và họ đang thảo luận với HP, Sun, và IBM nhằm đưa COM vào các hệ điều hành như: HP-UX, SunOS, IBM AIX, OpenVMS, Ultrix, và OSF/1. Với mô hình COM phân bố, những nhà phát triển ứng dụng có thể đưa ra những giải pháp sử dụng component giữa các hệ điều hành khác nhau trên mạng. Về cơ bản, COM là một sự kết hợp giữa mô hình đối tượng thành phần (Component Object Model) và OLE để sử dụng trên những hệ điều hành không phải là Windows. Nền tảng của kiến trúc nầy dựa trên RPC (Remote Procedure Call). COM (Component Object Model) - Mô hình Đối tượng Thành phần - là công nghệ mới của Microsoft định nghĩa sự tương tác giữa các đối tượng trong môi trường Windows. DCOM (Distributed Componenent Object Model) là một phiên bản của COM dùng trong mạng cho phép các đối tượng ở những máy khác nhau trên mạng có thể tương tác với nhau. COM và DCOM là công nghệ cốt lõi của ActiveX, là mô hình thành phần của Microsoft dùng trong Intranet và Internet. OLE (Object Linking and Embedding) là một tập các dịch vụ đối tượng, của Microsoft, dựa trên COM. OLE cho phép sự tương tác lẫn nhau giữa các đối tượng trong cùng một máy được viết bởi những công ty khác nhau bằng những ngôn ngữ lập trình bất kỳ. OLE cho phép các thành phần tạo bởi những nhà sản xuất khác nhau kết hợp lại thành một ứng dụng đơn. Hầu hết những ứng dụng của Microsoft đều dựa trên mô hình này. Trong suốt quá trình cài đặt, bạn có thể chọn những thành phần để cài đặt. Việc chọn lựa những thành phần làm cho bạn giảm bớt bộ nhớ dùng bởi ứng dụng cũng như yêu cầu về tài nguyên. Hai loại hỗ trợ cơ bản có thể được cung cấp bằng việc đưa ra sự bổ sung cho Windows CE. Hỗ trợ COM cơ bản, được giới thiệu cùng với Windows CE phiên bản 2.0, gồm có hỗ trợ cho xử lý (in-process servers). In-process servers là DLLs bao gồm một thành phần và chạy—giống như tất cả các DLLs—trong không gian địa chỉ của chương trình ứng dụng gọi. Hỗ trợ cơ bản bao gồm các thành phần quản lý bộ nhớ (CoTaskMemAlloc), trộn các file (StgCreateDocfile), và sự tự động. Các thiết bị sử dụng Windows CE 2.0, như là HPC và Palm-size PC, đều cung cấp hỗ trợ COM cơ bản (basic COM support). Cùng mức của hỗ trợ thường được cung cấp trong các thiết bị Windows CE 3.0-based mới hơn—bao gồm cả Pocket PC. Tất cả các thiết bị này về cơ bản hỗ trợ các khả năng để tạo và truy cập vào các đối tượng DLL-based COM. Nhà phát triển của COM khách hàng và dịch vụ trong máy tính để bàn các phiên bản của Windows biết rằng các đối tượng DLL-based COM—thường được biết như in-process servers—đều là một trong ba loại cơ bản của các đối tượng COM mà có thể được tạo ra. Hai đối tượng còn lại là dịch vụ nội bộ và dịch vụ từ xa. Một dịch vụ nội bộ cư trú tại cùng máy tính như khách hàng của nó, loại trừ nó chạy trong một không gian địa chỉ khác. Một dịch vụ từ xa chạy trong một máy tính khác hoàn toàn. Windows CE 3.0 cung cấp hỗ trợ cho 2 loại được cộng thêm của COM chủ, và gộp chúng lại với nhau như các thành phần DCOM. Ở đây chỉ có một sự khác nhau rất nhỏ, và hầu hết là giống với các phiên bản Windows dùng cho máy tính để bàn. Trong các máy tính để bàn, DCOM chỉ hỗ trợ các server từ xa, và không hỗ trợ các server cục bộ. Sự khác biệt này dường như là một rủi do của lịch sử. Hỗ trợ cho máy chủ từ xa đến thường chậm hơn. Hỗ trợ cho COM trong Windows CE, mặt khác, đầu tiên gồm có hỗ trợ server trong xử lý trong Windows CE 2.0. Hai sự khác biệt này là chỉ để tạo ra sẵn sàng với Windows CE 3.0. 2.1.2.7. Giao diện người sử dụng Giống như trên máy tính để bàn, một hệ thống cơ bản Windows CE có thể có một màn hình đồ họa và cung cấp đẹp như các bộ đối tượng giao diện người sử dụng. Một điểm khác là các thiết bị cơ sở Windows CE thường có các màn hình hiển thị nhỏ hơn nhiều. Vì vậy trong khi các máy tính để bàn điển hình chạy với một độ phân giải nhỏ là 1024x768, thì Pocket PC lại có màn hình hiển thị VGA với độ phân giải 240x320. Windows CE cung cấp một nhóm ít thành phần trong giao diện người sử dụng, bao gồm các hộp thoại phổ biến (mặc dù chỉ 4 trong 8 thiết lập trong máy tính để bàn được mô tả) và các điều khiển phổ biến. Với các điều khiển phổ biến, chỉ một tập hợp con những gì bạn có trên máy tính để bàn được mô tả. Nhưng lần nữa, chúng lại được mô tả như những đối tượng điều khiển tốt nhất trong phiên bản Windows cho máy tính để bàn. Windows CE cung cấp một vài cách mới cho người sử dụng để ảnh hưởng với một chiếc máy tính. Thậm chí, một loại của thiết bị trỏ, màn hình tiếp xúc, không thực sự mới chút nào. Rất nhiều các thiết bị cơ sở Windows CE khác nhau có tính năng này, cái cung cấp nhiều thuận tiện luân phiên bằng chuột. Chương trình tự động, một màn hình tiếp xúc được xem như một chuột. Ví dụ, người lập trình sử dụng Win32 nhận các thông báo WM_MOUSEMOVE; người lập trình sử dụng Visual Basic nhận các sự kiện MouseDown và MouseUp, như họ làm trong máy tính để bàn. Một phạm vi quan trọng của sự đổi mới nhận dạng tiếng nói. Nó đã được giới thiệu lần đầu cho Windows CE cho các sản phẩm tự động, nơi nó cung cấp sự lựa chọn tin cậy cho vùng phím số học. Nhưng thậm chí khi sự an toàn không là một kết quả, âm thanh đưa vào là một vùng mà đã bắt đầu để 1 tác động tới thông tin hệ thống. Nó hứa hẹn để giúp con người nâng cao sự tác động vào máy bằng việc tạo ra các cuộc gọi điện thoại thường xuyên— cấu tạo tế bào hoặc tín hiệu cơ bản chuyển sang thiết bị đầu cuối máy tính. 2.1.2.8. Đồ họa Các phiên bản Windows của máy tính để bàn thường có hệ thống đồ họa, và điều này cũng đúng đối với Windows CE. Và khi độ rộng của thư viện đưa ra đồ họa nhỏ hơn nhiều so với máy tính để bàn, Windows CE cung cấp nhiều hỗ trợ cho hiển thị đồ họa. Trong máy tính để bàn, có 3 thư viện đồ họa cơ bản là: Graphics Device Interface (GDI), DirectDraw (cũng giống như API lần đầu được giới thiệu với Windows 95), và OpenGL, một gói phần mềm 3D drawing từ Silicon Graphics. Windows CE cung cấp 85 trong số 325 hoặc các chức năng GDI mà sẵn có trong máy tính để bàn. Nghe điều này dường như Windows CE không có nhiều hỗ trợ cho thiết bị đồ họa, trên thực tế, điều ngược lại mới là đúng. Bạn có thể tạo đẹp hơn nhiều so với bất kỳ đoạn text nào, đường kẻ, đa giác hay ảnh bitmap mà bạn có thể làm trong máy tính để bàn GDI. Thậm chí bạn có thể quay đoạn text khi bạn vẽ nó. Một điều duy nhất không hỗ trợ là ánh xạ kết giao— một năng lực để vẽ trong các inche, centimet, hoặc các twips. Thay vào đó, tất cả đồ họa phải trong pixel. Microsoft đã giới thiệu hỗ trợ cho DirectDraw, đồ họa thực thi cao API, với Sega Dreamcast, một thiết bị hỗ trợ Windows CE 2.01. Nó được tạo ra rộng hơn sẵn sàng trong Windows CE 3.0, và thậm chí bao gồm trên Pocket PC. Hiện nay không hỗ trợ cho OpenGL trong mọi phiên bản của Windows CE. 2.1.2.9. Internet Tầm quan trọng của Internet là không thể phủ nhận được, vì vậy không ngạc nhiên lắm để kiếm rất nhiều thông tin hỗ trợ cho nó trong Windows CE. Mỗi phiên bản lại thường hỗ trợ các socket, đó là một API giao tiếp mạng cấp thấp. Trên thực tế, hỗ trợ cho các thiết bị hồng ngoại-cái có trong hầu hết các thiết bị cơ bản Windows CE — được phục vụ trong các socket. Windows CE thường xuyên hỗ trợ các WinInet API, phục vụ cho các điều khiển chính trên kết nối Web server (HTTP), cũng như các kết nối tới FTP chủ. Windows CE 3.0 có thể lưu trữ một Web server, hoàn thành với hỗ trợ cho Active Server Pages và ISAPI mở rộng. Với trình duyệt thiết bị cuối, Windows CE có một vùng rộng của lựa chọn. Trong một thiết bị cuối, bất cứ chương trình nào có thể lưu trữ HTML điều khiển tổng quan. Điều khiển này là một thứ sử dụng bởi các công cụ giúp đỡ Windows CE (peghelp.exe), thực hiện các hiển thị cơ sở của rich text. Bạn có thể nhúng điều khiển này sang bất kỳ chương trình C hoặc C++ nào (nhưng không chuyển được sang một chương trình Visual Basic cơ bản). Nó không lớn như nó đã có thể lúc đầu, mặc dù vậy, từ khi bạn phải hiển thị bất kỳ một hình ảnh đồ họa—GIF hoặc JPEG—bằng chính mình. Windows CE hỗ trợ hai trình duyệt Web: Microsoft Pocket Internet Explorer và Microsoft Internet Explorer 4.0. Pocket Internet Explorer được viết cratch cho Windows CE. Như đã nêu ở trên, nó rất nhỏ (1.3MB) và chỉ hỗ trợ những trình duyệt cơ bản. Trình duyệt thứ hai là Internet Explorer cho Windows CE. Nó là một cổng từ máy tính để bàn phiên bản của Internet Explorer 4.0, Service Pack 2. Nó hoàn toàn lớn hơn(3.1MB) Pocket Internet Explorer, và thường xuyên có sự hỗ trợ cho hầu hết các chuông và cái mà bạn có thể nhận thấy trên máy tính để bàn—các khung, cascading style sheets (CSS), và HTML động đưa ra chỉ một số ít. Tuy nhiên, nó không hỗ trợ VBScript, JScript. __________________ 2.2. Công cụ phát triển 2.2.1. Giới thiệu Từ khi phiên bản đầu tiên của Windows CE xuất hiện, Microsoft đã thêm nhiều công cụ phát triển sẵn có cho giả lập. Hiện nay, có hai sản phẩm công cụ phát trển cơ bản cho Windows CE là: Platform Builder 3.0 và eMbedded Visual Tools. 3.0. Platform Builder ít được các nhà phát triển phầm mềm cần tới. Thay vào đó, công cụ để sử dụng là eMbedded Visual Tools 3.0. Platform Builder là công cụ bạn có thể sử dụng để tạo ra cấu hình tùy chọn của Windows CE. Và nhờ vậy, có thể nhúng Windows CE vào một máy in laser, máy scan, một máy ảnh kỹ thuật số hoặc một cell phone. Bạn sẽ sử dụng Platform Builder để quyết định cho dù bạn muốn bao gồm, ví dụ như, hỗ trợ các đặc tính sheet và hộp thoại. Nếu đã từng làm việc với Windows CE đủ lâu, ta có thể nhớ tên cũ cho công cụ này—Windows CE eMbedded Toolkit eMbedded Visual Tools 3.0 là một môi trường tất cả trong một cho sự phát triển cơ sở Windows CE-tương tự như bộ Visual Studio. Nó cuộn sang một gói đơn tất cả hỗ trợ mà thường đòi hỏi 4 sản phẩm riêng rẽ. Không giống như sản phẩm phát triển chương trình trước đó của Windows CE, nó không đơn giản một add-on vào công cụ tồn tại cho Visual C++ và Visual Basic. Thay thế vào đó, nó cung cấp tất cả những gì bạn cần từ cả 2 môi trường đơn và gói độc lập. Khi bạn cài đặt eMbedded Visual Tools, có các mục chọn được thêm vào trong Start Menu: eMbedded Visual Basic 3.0, eMbedded Visual C++ 3.0, và Api Text Viewer. Các tên của các công cụ này —và kết hợp giữa các biểu tượng—sẽ không quen thuộc một chút nào đối với bất cứ ai, cho dù bạn đã từng phát triển cho Windows CE trước đó hay là chưa. Nhưng khi bạn bắt đầu chạy công cụ này, bạn sẽ thấy rất nhiều cái tương tự eMbedded Visual Basic 3.0 nhìn giống hệt như Visual Basic 6.0. Tương tự, eMbedded Visual C++ 3.0 rất giống bản sao của nó trong máy tính để bàn Visual C++ 6.0 2.2.2. Microsoft eMbedded Visual C++ 3.0 2.2.2.1. Sản phẩm nổi bật Microsoft eMbedded Visual C++ 3.0 là một chương trình mạnh nhất cho các nhà lập trình xây dựng chương trình phầm mềm ứng dụng cho các thiết bị sử dụng Windows CE. IDE đứng độc lập mang đến một mức độ mới cho sản phẩm cho sự phát triển Windows CE, không có sự thỏa hiệp mềm dẻo nào, thực thi, hoặc kiểm soát. Với eMbedded Visual C++, các nhà phát triển có thể đạt được các điều sau: có một sự thuận lợi của một môi trường phát triển quen thuộc bằng việc xây dựng các chương trình ứng dụng trên Windows CE sử dụng bộ tích hợp điện tử độc lập được thiết kế nhắm tới sự phát triển Windows CE; truy nhập Windows CE-cung cấp những tài liệu cụ thể nhằm tạo ra các bộ phát triển phần mềm nền bạn đã cài đặt ở nơi làm việc của bạn; tiết kiệm thời gian và tiền bạc bằng việc sử dụng các phiên bản Windows CE của Microsoft Foundation Classes và Active Template Library; xây dựng những giải pháp công nghệ với các khả năng qua các ADO cho Windows CE, xử lý các tác vụ qua MTS - Microsoft Transaction Server, và sự tích hợp gần gũi hơn với các dịch vụ của hệ điều hành Windows CE. Đạt tới sự truy nhập trực tiếp vào các tính năng dưới hệ điều hành không cần sự mã hóa thêm vào, cung cấp điều khiển đầy đủ trên các thiết bị phần cứng và hệ điều hành chủ. Truy nhập vào mọi tính năng của mọi sự hoán vị của hệ điều hành Windows CE để xây dựng nhanh nhất, thiết thực nhất cho các chương trình ứng dụng Windows CE. Là công cụ đầu tiên để lập trình cho các thiết bị mới nhất và thú vị nhất với Windows CE, sử dụng các giả lập SDK Windows CE cho eMbedded Visual C++. Tham gia lập trình ngay từ đầu và có thể xây dựng các chương trình tốt cho hệ điều hành tiếp theo. Mở rộng các lựa chọn phát triển hướng tới toàn bộ những nhóm người dùng mới và trang bị những chương trình tương tự như trong máy tính để bàn nhưng chạy trong Windows CE như trình duyệt Internet, các xử lý giao dịch công việc cụ thể (task-specific business processes), hoặc chương trình giải trí. Xây dựng các chương trình phục vụ sự lưu động cao, với tính năng có thể truy nhập từ xa dữ liệu lưu trữ và truyền tải với các mạng chủ. 2.2.2.2 Tăng hiệu suất của các nhà phát triển và các lập trình viên Nâng cao sự hiểu biết đã có và luyện tập bằng xây dựng Windows CE với cùng môi trường phát triển mà đã sử dụng cho phát triển các Windows truyền thống. Để tăng hiệu quả người lập trình với công nghệ IntelliSense, cung cấp on-the-fly hỗ trợ chương trình, bao gồm hoàn thành câu lệnh, thông tin tham số, và kiểm tra lỗi cú pháp. Giảm tối thiểu cố gắng phát triển phần mềm bằng xây dựng các thành phần ActiveX dùng lại—có thể dùng từ cả 2 chương trình eMbedded Visual C++ và eMbedded Visual Basic Windows CE. Nhanh chóng chọn và định hình thông tin triển khai dự án trong môi trường để hướng tới số lượng đa dạng và lớn nhất của thiết bị và xử lý với Windows CE. 2.2.2.3. Đơn giản hóa quá trình triển khai dự án và sửa lỗi Kiểm tra nhanh và thực thi các ứng dụng bằng cách cho phép các công cụ eMbedded Visual Tools tự động sao chép và khởi chạy các chương trình ứng dụng trong thiết bị handheld hoặc trong trình giả lập sau khi biên dịch file nguồn. Sửa lỗi nhanh chóng với một trình sửa lỗi được tích hợp giúp loại trừ các lỗi trong các chương trình ứng dụng khi chúng được chạy trong thiết bị với Windows CE hoặc trong trình giả lập. Cung cấp những công cụ thiết kế nhiều và đa dạng để phát triển các chương trình ứng dụng. Tránh được sự hao phí cho việc đầu tư phần cứng bằng cách ngay ban đầu kiểm tra các chương trình ứng dụng với một trình giả lập Windows CE, giúp cho người lập trình có thể kiểm tra rõ nhất về sản phẩm của mình ngay trên môi trường PC. Và, với dòng sản phẩm Pluggable SDK, những phiên bản trình giả lập mới có thể được dễ dàng thêm vào bộ công cụ phát triển Toolkit. 2.2.2.4. Truy cập toàn diện tới môi trường Windows CE Cung cấp công cụ điều khiển tới các thiết bị giao tiếp, như TCP/IP, truyền qua một cổng hồng ngoại hoặc cổng nối tiếp để chạy các ứng dụng phục vụ nhu cầu lưu động. Phát huy những lợi thế của COM, nhờ vậy có thể phát triển những giải pháp có thể sử dụng lại cho các thiết bị cơ sở khác nhau dùng trong Windows CE Có những công cụ phát triển hiệu quả cao bằng cách sử dụng lại những đối tượng điều khiển ActiveX đã có được xây dựng cho môi trường Windows CE Khai thác toàn bộ sức mạnh của Windows CE bằng việc sử dụng eMbedded Visual C++ truy cập tới mọi API trong tất cả thiết bị chạy Windows CE. Xây dựng giao diện đồ họa cho chương trình ứng dụng với các đối tượng điều khiển Command Bar và Menu Bar. Cho phép PM - Platform Manager tự động thiết lập một kết nối tới thiết bị để thử và thi hành ứng dụng. Xây dựng các trình chủ COM – Compnent Object Model sử dụng các phiên bản Windows CE của ATL – Active Template Library. Sử dụng MFC cho Windows CE, lớp ứng dụng đã được chứng minh để xây dựng giải pháp cho các thiết bị Windows CE gồm cả các ứng dụng sử dụng kiến trúc DOC/View. 2.2.2.5. Xây dựng các ứng dụng cho thiết bị Windows CE mới nhất Xây dựng các giải pháp cho thiết bị Windows CE: Handheld PC Pro, Palm-size và Pocket PC với tính năng lưu động lớn nhất & sự quản trị, bảo trì nhỏ nhất. Xây dựng những ứng dụng phân tích và thu thập dữ liệu mạnh cho Pocket PC. Đạt được sự nhanh và mềm dẻo lớn nhất cộng với các khả năng của Windows CE Toolkits có thể cắm vào những bộ phát triển cho những nền Windows CE mới nhất. 2.2.2.6. Truy xuất dữ liệu nhanh và mềm dẻo Sử dụng một phần thế mạnh kỹ thuật truy xuất dữ liệu ADO trên máy tính để bàn và máy tính trạm để xây dựng các giải pháp dữ liệu có tính thực thi cao. Với các dịch vụ Windows CE, bảo trì bản sao của các bảng dữ liệu từ các kho dữ liệu, bao gồm: Microsoft Access và SQL Server, được đồng bộ hoá một cách tự động khi kết nối tới nguồn dữ liệu từ xa. TinA K42